A La mang theo Tiểu Ngọc sải bước dài, nghênh ngang
rời khỏi tướng phủ. Đã có lần đầu tiên, sẽ có lần tiếp theo. Nàng đã dạy đầu
bếp làm mấy món chay, cùng Tử Ly khai trương tửu lầu một cách suôn sẻ. Tửu lầu
lấy tên là “Tố tâm trai”, chỉ có mấy gian phòng riêng, khách muốn ăn phải đặt
chỗ trước cả hai tuần.
Trong phủ bắt đầu bận tíu
tít chuẩn bị cho hôn lễ của Thanh Lôi và thái tử, hồi đầu khi A La mới xuất
phủ, Lý tướng còn hỏi han tiến triển quan hệ giữa nàng và tiểu vương gia, A La
ứng phó rất thận trọng, không dám sơ suất. Về sau Lý tướng bận chuyện chính sự,
lại lo liệu hôn lễ cho Thanh Lôi, dần dần lơ là A La không hỏi nhiều.
Lưu Giác cơ hồ mất hút,
không thấy lộ diện. A La cả ngày say sưa trong niềm phấn khởi kiếm được bạc,
mải mê tính toán cần bao nhiêu thời gian có thể thu xếp cuộc đào tẩu. Không bị
Lưu Giác quấy rầy, A La và Tử Ly có thời gian học cưỡi ngựa, cuộc sống ngày
càng thoải mái vi vu.
Tử Ly không biết A La đã
biết thân phận của mình, không hề đả động chuyện đó, A La cũng không hỏi. Chàng
nhìn A La rời phủ vui như con chim sổ lồng, bỗng thấy càng thương mến nàng hơn.
Ở bên A La, tâm trạng chàng rất thoải mái, dù lòng phiền muộn đến mấy, hễ nhìn
thấy nàng là tiêu tan hết.
Một hôm, lần đầu tiên A
La có thể cưỡi ngựa phóng như bay, mặt đỏ hồng, hớn hở nhìn chàng, nói: “Đại
ca, cảm giác bay lên thật là tự do!”.
Tử Ly cười: “Cảm giác bay
lên như thế nào? Muội đã từng bay chưa?”.
Đột nhiên A La nghĩ đến
cảm giác lúc ngồi trong khinh khí cầu, bèn nói: “Là cảm giác từ trên không nhìn
xuống mặt đất, thấy tâm hồn khoáng đạt bao la”.
“Con người sao có thể bay
lên không?”.
A La suy nghĩ rồi bảo tùy
tùng của Tử Ly làm một con diều giấy thật to, nói với chàng: “Đại ca, chúng ta
làm con diều lớn cho bay lên, đại ca dùng khinh công đứng lên đó thử xem”.
Đến khi Tử Ly vọt lên hai
chân đậu vào trong con diều hạ thấp dần, được ngựa kéo chạy như bay, lực gió
kết hợp với khinh công của Tử Ly, lúc này chàng đã cảm nhận được cảm giác bay
lên như A La nói. Mặc dù, chỉ được một lúc, nhưng chàng nhớ mãi.
A La thuộc rất nhiều câu
chuyện, nàng kể với Tử Ly: “Có một người phàn nàn với một vị thần rằng, gánh
nặng trên vai anh ta quá lớn, anh ta đã quá mệt, quá khổ. Vị thần hứa, nếu anh
ta không ngoái đầu lại, vị thần sẽ luôn theo sát anh ta. Chỉ cần đi một chặng,
sau này sẽ không khổ, không mệt nữa. Người này vâng lời, mải miết đi không hề
ngoái lại. Bao núi cao, đồng rộng, biển sâu, đều vượt qua dễ dàng, càng đi càng
phấn chấn, liền hỏi vị thần, sao ngài sao không đi với tôi suốt đời? Có ngài đi
cùng, tôi có thể đi xa như vậy, càng đi càng phấn chấn”.
Tử Ly cười: “Đó là do vị
thần dùng phép thuật, giúp cơ thể anh ta nhẹ đi, để anh ta không mệt”.
A La cười, nheo mắt nhìn
Tử Ly nói: “Vị thần cho anh ta ngoái lại nhìn, lúc đó anh ta đang đứng trước
bãi biển, quay đầu lại, chỉ thấy dấu chân của chính mình. Vị thần nói, thực ra
ta hoàn toàn không đi cùng ngươi, vị thần của ngươi ở ngay trong lòng ngươi. Ý
nói mỗi người nếu có trách nhiệm với việc làm của mình, chiến thắng được bản
thân sẽ chiến thắng tất cả”.
Tử Ly nhìn nàng đăm đắm,
rất lâu sau mới nói nhỏ một câu khiến A La phát hoảng: “Muội chính là vị thần
đó trong lòng ta”. Thoắt cái đã nửa năm trôi qua. Thanh Lôi mặc dù chỉ là thứ
phi của thái tử, do được thái tử sủng ái, tuy cùng xuất giá một ngày với Vương
Yến Hồi, nhưng cũng được hoàng cung nghênh đón hết sức long trọng linh đình.
Hôm diễn ra đại hôn lễ, A La lần đầu tiên nhìn thấy quang cảnh hôn lễ của thái
tử thời cổ đại, đương nhiên thái tử phi không phải là Thanh Lôi mà là Vương Yến
Hồi. A La chậc lưỡi, sao mà đông người đến thế. Đoàn người đứng dài đến mấy
dặm, có phải đây chính là đội nghi lễ quốc gia thời cổ đại?
Khi nàng đang cùng Tiểu
Ngọc chơi trên lầu hai của Tố tâm trai thì Lưu Giác đột nhiên xuất hiện: “Đã
lâu không gặp. Nghe nói tiểu thư đã học cưỡi ngựa, sống rất vui vẻ?”.
A La thầm mắng hắn ta bám
dai như đỉa, cố nặn ra nụ cười thật tươi: “Vâng, nếu tiểu vương gia không xuất
hiện tiểu nữ sẽ còn vui hơn”.
Lưu Giác nói nhỏ: “Sau
đại hôn lễ của thái tử là đến hôn lễ của tứ hoàng tử”.
A La “ồ” một tiếng, cũng
nói nhỏ: “Sau hôn lễ của thái tử, Cố tiểu thư cũng xuất giá”.
Lưu Giác ngẩn người, mỉm
cười: “Chẳng phải cả hai ta đều đau lòng hay sao? Cùng đi uống rượu cho vui
nhé?”.
A La không thèm: “Tiểu
vương gia sẽ không mượn rượu giả điên, khiến người khác mất mặt chứ?”.
Lưu Giác cười: “Nếu rượu
vào mà lòng nàng vẫn phiền muộn, nàng có thể ôm ta mà khóc”.
A La mắng: “Đăng Đồ
Tử(11)...”.
Lưu Giác không hiểu:
“Nghĩa là gì?”.
“Đồng nghĩa với mất
mặt!”.
“Sao ta có thể mất mặt?
Nhiều nhất là khi ở bên nàng, ta sẽ giấu mặt vào lòng”. Nói đoạn cười ngất bỏ
đi.
Một tháng sau hôn lễ của
thái tử, Tử Ly thổi tiêu hẹn A La ra ngoài, hai người cưỡi ngựa phi thẳng qua
cổng tây thành, được một lát thì dừng lại. A La nhảy xuống ngựa thở gấp: “Không
ngờ thảo nguyên tháng tư lại nhiều hoa thế. Tại sao hoa ở đây toàn màu tím?”.
Tử Ly mỉm cười: “Loài hoa
này tên là Bắc tinh lan, nở rộ vào tháng tư, mùa hoa có thể kéo dài đến cuối
tháng sáu”.
A La nhìn thảo nguyên bát
ngát tít tắp tận chân trời, hoa cũng phủ rợp tận chân trời, bỗng thốt lên: “Nếu
có lều trướng, buổi tối dựng trướng trên thảo nguyên, vừa nướng thịt ăn vừa
ngắm sao thì hay biết mấy”.
Tử Ly cười: “Chuyện này
có gì khó, bảo người chuẩn bị là được”.
Nét mặt chàng tràn đầy vẻ
âu yếm, cưng chiều, A La bỗng cảm động, lại tần ngần: “Buổi tối muội không thể
ra ngoài. Bị cha phát hiện thì không ổn!”.
Tử Ly chớp mắt: “Muội ngủ
sớm đi, rồi trốn ra ngoài, ta sẽ đến đón muội”.
“Đại ca, huynh vĩ đại
quá!”. A La nhảy lên sung sướng. Tử Ly nhìn nàng, nói: “A La, mùa thu này muội
đã mười bốn tuổi, đúng không? Ta thấy muội đã cao hơn một cái đầu rồi đấy”.
A La dùng tay đo, đúng là
đầu nàng vừa tới vai Tử Ly, có thể vẫn còn cao nữa. Cao lên thì tốt, có thể rời
khỏi tướng phủ! Nàng hớn hở nói với chàng những thứ cần chuẩn bị, và các loại
gia vị dùng cho món thịt nướng. Tử Ly mỉm cười nhất nhất tán đồng, tựa hồ chàng
sẵn sàng hái cả sao trời cho nàng.
Tối hôm đó, đợi mọi người
ngủ cả, A La khóa trái cửa, lẳng lặng nhảy qua cửa sổ, đi qua sân thật khẽ. Tử
Ly đã đứng đợi trong rừng trúc, hai người bịt miệng cười.
Tử Ly cùng nàng vượt tường,
cổng thành đã khóa, chàng dẫn nàng loanh quanh qua mấy khúc quành, không biết
cuối cùng chui ra bằng lối nào. Chàng cười nói: “Ninh quốc quá cổ kính luôn ẩn
giấu những bí mật không ai biết, may mà ta biết con đường bí mật này”. A La
cũng cười, thầm nghĩ, chàng là tứ hoàng tử của Ninh quốc, bí mật này chàng
không biết mới lạ.
Hai người phi ngựa trên
thảo nguyên, trên đầu sao dầy đặc, nhấp nhánh, ánh trăng rất sáng, bầu trời
không một gợn mây. Phi một hồi đã nhìn thấy ánh lửa.
Tùy tùng của Tử Ly đã
chuẩn bị xong xuôi, thấy hai người đến, họ lẳng lặng rút vào màn đêm.
A La nướng thịt trên đống
lửa, vùi khoai trong tro. Hai người vừa gặm thịt xiên vừa nói chuyện. Tử Ly hỏi
A La: “Nếu biết ta là hoàng tử của Ninh quốc, muội có còn đi lại với ta?”.
A La nói: “Chẳng phải
muội đã qua lại với huynh từ lâu rồi sao, đại ca? Hay là muội nên gọi huynh là
Lưu Phi?”.
“Muội đã biết rồi ư?”.
“Phải, Lưu Giác cho muội
biết”.
“Sao không hỏi ta?”.
A La cúi người bới khoai:
“Nóng quá, cầm lấy này!”. Nàng cầm củ khoai đảo qua đảo lại trên tay cho bớt
nóng, rồi ném cho Tử Ly: “Muội đã nói rồi mà, nếu huynh muốn sẽ tự nói ra,
không muốn nói, muội hỏi làm gì?”.
Tử Ly thong thả bóc vỏ
khoai, đưa cho A La, đón lấy củ khác bóc tiếp: “Vậy muội cũng biết hôn sự giữa
ta và Cố Thiên Lâm?”.
A La vừa ăn vừa nói:
“Đúng, muội đã biết”.
Tử Ly nói: “Muội thấy Cố
Thiên Lâm thế nào?”.
“Rất đẹp, kiêu ngạo,
thông minh. Ấn tượng của muội về nàng ấy rất tốt”.
“Muội quen nàng ấy thế
nào?”.
A La ăn rất hào hứng, rồi
nằm xuống ngắm sao: “Trong Đào hoa yến Thiên Lâm chơi khúc “Bội lan”, lựa khúc
và chơi đàn đều thượng hạng, dùng tiếng đàn bộc lộ tâm tư, làm say lòng bao
người, đến bây giờ nàng ấy vẫn còn fans. À là những người hâm mộ đó”.
“Nhưng tại sao thái tử
lại chọn lệnh tỷ mà không chọn nàng ấy?”.
A La không biết nói sao,
Tử Ly tiếp tục: “Nghe nói, khúc “Thu thủy” của lệnh tỷ khí thế áp đảo, tiếng
đàn tiêu diêu, tấm lòng rộng mở, chí ngút cao xanh, khí độ phi phàm”.
Tử Ly lại nói: “Tuy
nhiên, vừa rồi ta có việc đến Đông cung, nhìn thấy lệnh tỷ, thái tử phấn khởi,
bảo nàng ấy dạo thử một khúc, ngón đàn tuy phi phàm, nhưng cũng không được như
lời đồn”.
A La đành giải thích:
“Nhưng sau khi tỷ tỷ được gả cho thái tử, một lòng chỉ muốn giữ bổn phận một
hiền thiếp, không như thời còn là khuê nữ”.
Tử Ly nói nhỏ: “A La,
muội thích Cố tiểu thư đúng không?”.
“Phải, lúc đó muội còn
gọi nàng ấy là Thiên Lâm tỷ tỷ”.
Tử Ly cười,”Vậy thì, A
La, muội muốn cưới một phu quân thế nào?”.
A La nghĩ đến câu nói vui
về các bà vợ, như “sư tử Hà Đông” , lại nghĩ đến tâm nguyện của các bà “mong
chồng vinh hiển, áo gấm xông hương” nghĩ đến nhiều chuyện tình đã xem, cười
nói: “Không biết. Muội chưa yêu bao giờ. Nhưng...”. Nàng dừng lại cười cười
không nói. Nhìn sao trên trời, A La lại tiếp: “Được quen biết đại ca thật là
may mắn, muội đã tưởng ở đây muội sẽ không quen được đấng trượng phu nghĩa hiệp
nào”.
Mắt Tử Ly dần dần sáng
lên, A La nói: “Mắt huynh rất sáng, như sao trên trời vậy, đại ca, huynh rất
tuấn tú. Đúng thế, rất tuấn tú!”.
Tử Ly nhìn trời: “Thuở
nhỏ mẫu hậu thường bế ta ngắm sao trời, nói mắt Tử Ly sáng như sao. Thuở nhỏ ta
rất nghịch ngợm...”.
A La nghe Tử Ly kể chuyện
những ngày thơ ấu của chàng, nghe mãi, dần ngủ thiếp lúc nào không biết. Tử Ly
ngây người nhìn nàng, kéo mền đắp cho nàng, gối đầu nàng lên đùi mình, ngẩng
nhìn sao chi chít trên đầu. Thầm nghĩ, nếu không phải bận tâm tới việc triều
chính, cứ như thế này thì tốt biết bao.
Khi A La và Tử Ly vượt
tường ra khỏi phủ trốn ra ngoại thành, Lưu Giác trong vương phủ cũng được bẩm
báo. Hôm nay không giống mọi lần, Lưu Giác cảm thấy bất an, phiền não. Cứ nghĩ
đến cảnh A La và tứ hoàng tử qua đêm trên thảo nguyên, chàng thấy buồn vô hạn.
Ngơ ngẩn đi lại trong Tùng phong đường, lặng ngắm nhìn bức tranh trên tường,
cuối cùng gọi Lưu Anh nói: “Cho triệu Huyền tổ và Xích tổ, ta muốn ra ngoại
thành”.
Lưu Anh nghe Lưu Giác nói
muốn triệu Huyền tổ và Xích tổ, lòng lấy làm kinh ngạc. Lén liếc nhìn sát khí
ngấm ngầm trên mặt chủ nhân. Đang đêm khuya chúa thượng muốn ra ngoài thành là
bởi vì tam tiểu thư của tướng phủ hẹn hò với tứ hoàng tử trên thảo nguyên?
An Thanh vương thân nắm
trọng binh, đội Ô y kỵ trong vương phủ được lập ra do tiên đế ban chỉ, gồm
những binh sĩ quyết tử chỉ nghe mệnh lệnh của vương phủ, ngoài An Thanh vương,
chỉ có tiểu vương gia có quyền điều động, bình thường không ai biết đội quân
này trú ở đâu. Ô y kỵ có năm tổ, năm xưa ngay cả khi hộ vệ Ninh vương đăng cơ
cũng chỉ điều động bốn tổ, hôm nay lại điều động tới hai tổ kỵ binh. Lưu Anh tự
dưng thấy căng thẳng bội phần.
Sau nửa canh giờ, tại
Tùng phong đường của vương phủ đã có hơn trăm bóng người lặng lẽ tập hợp. Đội
quân vận binh phục màu xanh sẫm, bịt mặt màu đen, áo giáp mềm màu xanh tía là
Huyền tổ; Xích tổ vận binh phục màu tiết dê, họ lẫn vào màn đêm, nếu không nhìn
kỹ không thể nhận ra.
Lưu Giác lạnh lùng ra
lệnh: “Tối nay ta đi săn trên thảo nguyên, Huyền tổ theo hầu, Xích tổ tiếp
ứng”.
Hơn trăm bóng đen trước
mặt nhất loạt quỳ sụp xuống, khẽ đáp: “Tuân lệnh!”.
Từ lúc tập hợp đến lúc
xuất phủ, đội quân hơn trăm người hầu như không phát ra một tiếng động, vó ngựa
đã được bọc vải, phi như những cơn lốc đến cửa thành phía nam. Lính gác bị Lưu
Giác đánh thức, mắt vừa liếc nhìn, chân đã mềm nhũn, quỳ sụp trên đất, hoàn
toàn không biết đám người này xuất hiện từ lúc nào.
Lưu Giác không nhiều lời,
tay vừa vung, lệnh bài Xích Long lóe sáng. Đây là lệnh bài chạm rồng màu đỏ, do
tiên đế ngự ban cho An Thanh vương trước lúc băng hà, khi triều đình có biến,
người cầm lệnh này có quyền sinh quyền sát, có thể trực tiếp cai quản, trấn thủ
Phong thành. Không ngờ hôm nay Lưu Giác chỉ vì muốn ra khỏi Phong thành đã dùng
đến lệnh bài này.
Lính gác vừa nhìn thấy
lệnh bài Xích long, liền lập tức mở cổng thành. Đoàn người quất ngựa lao về
hướng thảo nguyên, giống như những đám mây đen bay vun vút dưới ánh trăng. Lính
gác hoa mắt nhìn theo, nghe thấy người cưỡi ngựa đi sau cùng lạnh lùng ra lệnh:
“Các ngươi cứ việc ngủ đến sáng, hãy coi bây giờ đang mộng du! Hiểu chưa?”.
Lính gác ngơ ngẩn gật đầu. Thấy đám mây đen đã bay xa lẫn vào màn đêm, họ mới
vội vàng đóng cổng thành, chạy vào hậu thất, đắp chăn ngủ tiếp.
Khi đội quân rời khỏi
Phong thành năm dặm, Lưu Giác vẫy tay, Xích tổ chia nhóm, rời khỏi đội hình mất
hút trong thảo nguyên. Binh sĩ của Huyền tổ theo sau Lưu Giác tiếp tục phóng về
phía trước. Không lâu sau đã nhìn thấy những đốm lửa phía xa, Lưu Giác càng
thúc ngựa phóng nhanh. Chỉ nghe thấy “vút” một tiếng, có vật gì vòng qua yên
ngựa của Lưu Anh, đó là một mũi tên không đầu. Đám cỏ phía trước lay động, mấy
chục bóng người chui ra, dưới ánh trăng nhìn rất rõ, chính là đội thị vệ của
phủ tứ hoàng tử.
Một người bước lên nói
nhỏ: “Có phải Ô y kỵ của phủ An Thanh vương?”.
Lưu Anh hét: “To gan, dám
cản đường tiểu vương gia!”.
Người đó cúi chào Lưu
Giác, nhưng không nhượng bộ: “Kính chào tiểu tương gia, chúa công chúng tôi
đang nghỉ ngơi ngắm cảnh, phiền tiểu vương gia đi đường vòng”.
Lưu Anh tức giận hét:
“Làm gì có chuyện đó, tiểu vương gia chúng ta muốn đi săn trong đêm, các ngươi
dám ngăn cản?”.
Thị vệ của vương phủ rút
đoản đao soàn soạt, khí thế bừng bừng, hàm ý nếu thương lượng không thành sẽ
phải động thủ.
Lưu Giác đột nhiên cười
lớn: “Thì ra tứ điện hạ đang ở đây, vốn không nên quấy rầy, đã may mắn gặp nhau
như vậy, chi bằng cùng ngắm trăng với tứ điện hạ”. Nói đoạn ngẩng nhìn trời,
“Sao hôm nay đẹp quá! Các ngươi ở lại đây, người đông làm hỏng cảnh quan”.
Lưu Anh vội nói: “Chúa
thượng!”.
Lưu Giác liếc chàng ta
một cái. Lưu Anh đành lùi xuống, nói: “Thuộc hạ sẽ đợi ở đây”. Lưu Giác cưỡi
ngựa thong thả đi về phía trước, thị vệ của phủ tứ hoàng tử nhìn nhau. Một
người nói: “Tiểu vương gia, xin chậm bước, để bỉ chức lên trước bẩm báo”. Bóng
người vụt chạy về phía đốm lửa.
Tử Ly đang ngắm nhìn A La
say giấc, chàng đã sớm cảm nhận những rung chấn nhè nhẹ của tiếng vó ngựa từ
xa, đoán là có người đến, suy nghĩ một lát, chàng liền giơ tay điểm huyệt ngủ
của A La, bế nàng vào trong trướng. Sau đó chàng trở ra đứng trước cửa lều,
lặng lẽ nghe thị vệ bẩm báo Lưu Giác dẫn Ô y kỵ đi vào thảo nguyên, đang một
mình cưỡi ngựa đến đây.
Tử Ly thong thả bước đến
ngồi bên đống lửa, chất thêm củi vào lửa. Tiếng chân ngựa đã dừng ngay bên
cạnh, Lưu Giác cười sang sảng: “Điện hạ thật có nhã hứng, rất biết hưởng thụ”.
Vừa nói vừa đi đến ngồi xuống cạnh đống lửa, lấy ra bầu rượu, nói: “Rượu phụ
thân gửi từ Biên Thành về, vị mạnh như lửa, vừa sảng khoái vừa mê ly”.
Nụ cười nhạt vẫn trên môi
Tử Ly, chàng đón bầu rượu nhấp một ngụm lớn, đoạn ném trả Lưu Giác: “Tiểu vương
gia sao lại có sở thích khác thường vậy, thích đi săn trong đêm?”. Lưu Giác
ngẩng đầu, cũng tợp một ngụm lớn, cười nói: “Đó là do tứ điện hạ chưa được
hưởng cái thú đi săn trong đêm. Nên biết, trong đêm chỉ nhìn mắt con mồi mà
săn, quả thực kích thích hơn nhiều so với săn ban ngày!”.
Tử Ly lơ đãng hỏi: “Đêm
nay tiểu vương gia đã nhìn thấy mắt con mồi chưa?”. Mắt Lưu Giác liếc nhanh vào
trong trướng, cười lớn: “Con mồi sợ mũi tên của ta, nhắm mắt ngủ rồi”. Tử Ly
cười nhạt, vươn vai: “Con mồi đã ngủ, xem ra đêm nay tiểu vương gia trắng tay
ra về rồi”.
Lưu Giác đứng dậy, cũng
vươn vai cười: “Xưa nay ta chưa bao giờ trắng tay ra về, chỉ cần đánh thức con
mồi là xong”.
Nói đoạn nhón chân định
đi về phía lều. Thoắt cái, Tử Ly đã đứng chắn cửa lều: “Tiểu vương gia hãy ra
thảo nguyên mà săn, bản vương không tiễn”.
Lưu Giác lạnh mặt, nói:
“Ta nhìn thấy đôi mắt lóng lánh trong trướng, chạy lung tung trong tẩm trướng
của điện hạ là không hay, để ta tóm ra đây!”. Giơ tay định vén rèm. Bàn tay Tử
Ly đã chặn lại, cười: “Chuyện trong trướng của bản vương khỏi phiền tiểu vương
gia phí sức!”.
Lưu Giác cười gằn: “Điện
hạ có thể thỏa mãn một chút tính hiếu kỳ của ta không?”. Bóng hai người vụt lay
động, cánh tay vung lên. Đột nhiên “vù vù” hai tiếng gió phát ra từ những cánh
tay đập vào nhau, chỉ nghe “ầm” một tiếng, chiếc trướng sụp đổ. Tử Ly kinh
ngạc, lao vào trong bế A La đang nằm cuộn trong tấm mền.
Lưu Giác dừng tay: “Thật
là có lỗi, thì ra tứ điện hạ đã tìm thấy tri kỷ trong đêm thảo nguyên, ta lỗ
mãng rồi”.
Sắc mặt Tử Ly rất xấu,
chàng lạnh lùng nói: “Đâu có, tiểu vương gia nếu vẫn còn nhã hứng, chi bằng ta
uống thêm chén rượu. A La đang ngủ say, chúng ta không nên quấy rầy nàng ấy”.
Lưu Giác liếc nhìn mặt A
La, biết nàng đã bị điểm huyệt, vẫn đang say ngủ. Chàng lùi lại hai bước, ngồi
xuống bên đống lửa và uống rượu.
Mấy tùy tùng của phủ tứ
hoàng tử không biết từ đâu xuất hiện, nhanh nhẹn thu dọn chiếc trướng vừa đổ,
xong xuôi lại biến mất. Trên thảo nguyên yên tĩnh chỉ có tiếng củi nổ lép bép
trong đống lửa lớn đang cháy rừng rực. Tử Ly đặt A La xuống thảm thật khẽ.
Lưu Giác đột nhiên nói:
“Tứ điện hạ thật là có phúc, hai tháng nữa nghênh đón thiên kim tiểu thư của Cố
tướng, một trong hai tuyệt sắc Phong thành”.
Tử Ly vẫn cười nhạt:
“Đúng là có phúc, đến lúc đó xin mời tiểu vương gia đến chia vui”. Lưu Giác
cười ha hả, mắt nhìn A La: “Tứ điện hạ lẽ nào không muốn hưởng hết phúc ở
đời?”.
Tử Ly mỉm cười: “Công,
phượng đều đẹp. Thế nào? Tiểu vương gia dạo này cũng có ý định thành gia thất
ư?”.
Lưu Giác cười khanh
khách: “Tứ điện hạ chắc chưa biết chuyện, năm trước tôi đã có lời cầu thân với
Lý tướng, Lý tướng vui vẻ nhận lời, chỉ đợi ái nữ đến tuổi cập kê là đến rước
về”.
Nụ cười ngưng lại trên
môi Tử Ly, chàng trầm ngâm giây lát, lại mỉm cười, nói: “Xem ra không chỉ một
mình bản vương muốn cầu thân với Lý tướng, một nữ nhi không thể gả hai chồng,
lẽ nào Lý tướng định cùng lúc giẫm lên hai con thuyền?”.
Lưu Giác nhìn mặt Tử Ly,
thấy chàng thản nhiên nhìn lại, không có vẻ đang nói dối, đột nhiên không hiểu
thực hư thế nào. Nghe đồn Lý tướng bản tính xảo quyệt, mưu tính rất sâu, lẽ nào
ông ta đã gả một cô con gái cho thái tử lại còn muốn gả một cô cho tứ hoàng tử,
sau này bất luận ai nối ngôi, ông ta cũng ung dung hưởng lời. Lưu Giác trong
đầu suy nghĩ rất lung nhưng nét mặt vẫn tươi cười: “Chuyện này phải làm thế nào
đây, tứ điện hạ? Lẽ nào hai chúng ta phải tỉ thí phân cao thấp? Chuyện mà đồn
ra ngoài chẳng phải khó xử lắm sao”.
Tử Ly đã hiểu ý Lưu Giác,
người khó xử đương nhiên là Cố tướng, ái nữ còn chưa gả đi, chàng rể quý đã cầu
thân với Lý tướng, cái mặt già của Cố tướng biết để vào đâu? Hơn nữa, Cố Thiên
Lâm là phi tử đã được Ninh vương ban hôn, nếu chàng làm vậy há chẳng phải không
nể mặt phụ hoàng! Tử Ly cười nhạt: “A La còn hơn một năm nữa mới đến tuổi cập
kê, hãy để nàng tự quyết định”.
Nói đoạn mắt đột nhiên
trở nên sắc lạnh, ánh mắt quét qua mặt Lưu Giác: “Bản vương không muốn có
chuyện cưỡng ép xảy ra”.
Lưu Giác thấy hay, lập
tức tán đồng, cười lớn: “Doãn Chi đâu phải người không biết thưởng thức, dưa
chín ép không ngọt. Đương nhiên nếu tứ điện hạ và Cố tiểu thư phu phụ tình
thâm, thay đổi chủ ý, đừng quên nói với ta một tiếng”.
Lưu Giác đứng dậy nhảy
lên ngựa, nhìn thấy những quầng sáng le lói phía chân trời, thốt lên: “Phong
cảnh nơi này quả rất đẹp”. Nói đoạn, chàng ra roi thúc ngựa.
Tử Ly đột nhiên nói:
“Nghe đồn Tùng phong đường của tiểu vương gia vẫn treo bức họa, có phải muốn
tranh với bản vương?”.
Lưu Giác sững người. Tử
Ly nói tiếp: “Nếu đúng vậy, bản vương khuyên ngươi, không nên có chủ ý với A La
nữa”.
Lưu Giác cười lạnh lùng:
“Tứ điện hạ tốt với A La như thế, điện hạ đã thương nàng ấy như vậy, lẽ nào để
A La chịu tủi phận thứ thiếp?”. Dứt lời, không đợi hồi âm, chàng liền quất roi,
ngựa hý một tiếng vút đi.
Tử Ly ngẩn người, buông
tay nhìn những vệt sáng phía chân trời, một ánh hồng dần dần lan ra khắp chân
trời, bất giác thở dài. Chàng vẫy tay, tùy tùng dắt ngựa đến. Chàng ôm A La lên
lưng ngựa phi về thành. Gió ù ù bên tai, thảo nguyên sáng sớm tháng tư vẫn còn
se lạnh, hai má A La phớt hồng, mắt vẫn nhắm nghiền. Tử Ly ôm riết vào người,
hơi ấm truyền ra từ cơ thể mềm mại của A La, khiến lòng chàng không còn trống
trải.
Đi vào trong tướng phủ,
chàng đánh thức A La: “Đến phủ rồi, dậy thôi”.
A La dụi mắt: “Đại ca,
muội ngủ say quá, không thức với đại ca, lại phiền đại ca đưa về tận phủ”.
Tử Ly cười dịu dàng: “Sau
này đại ca sẽ đưa muội đi ngắm cảnh đẹp hơn nữa. Muộn rồi, mau về đi”.
A La nhìn Tử Ly, lòng vui
lâng lâng, Tử Ly tốt với nàng quá. Nàng vẫy tay với chàng: “Đại ca, tạm biệt!”.
Dứt lời, quay đầu chạy khỏi rừng trúc.
Tiểu Ngọc đã dậy, thấy A
La chạy từ bên ngoài vào, bèn nói: “Tiểu Ngọc đẩy cửa, thấy đóng chặt, tưởng là
tiểu thư chưa dậy”.
A La giơ hai tay, cười:
“Ta đến rừng trúc luyện công”. Rồi véo má Tiểu Ngọc, nói: “Lấy hộ ít nước nóng,
ta vẫn chưa rửa mặt”.
Sau khi Tiểu Ngọc đi
khỏi, A La nhìn trước nhìn sau, lại nhảy qua cửa sổ vào phòng, mở cửa. Ngồi
trước gương, nàng nghĩ lại cảnh thảo nguyên trong đêm và tâm trạng đầy phấn
kích của mình trước cảnh tượng mênh mang huyền ảo đó, bất giác mỉm cười, lòng
thầm nhủ, nếu không bị Lý tướng bắt ép lấy người có chức có quyền, không có
những quy tắc lễ nghi ngặt nghèo, được sống tự do trên mảnh đất tươi đẹp này
cũng thực dễ chịu. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng như ý, vả lại đây đâu
phải thời hiện đại, mình muốn làm gì thì làm. A La lại thở dài, cuộc sống thoải
mái tự do này, được ngày nào hay ngày đó. Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, việc cần
làm gấp bây giờ là nhanh chóng rời khỏi tướng phủ.
A La dùng xong bữa sáng,
đợi thất phu nhân đi thỉnh an trở về, nàng nói với bà: “Mẹ à, bây giờ bạc đã đủ
rồi, chúng ta trốn được chưa?”.
Thất phu nhân tươi cười:
“Tam Nhi, chúng ta trốn thế nào? Hiện vẫn chưa có kế sách vẹn toàn, không thể
khinh suất manh động, nếu không chúng ta chạy được bao xa?”.
A La cũng cười: “Con
biết, chỉ là con quá nóng ruột muốn đi. Mẹ yên tâm, sẽ không có sơ suất gì
đâu”.
Bây giờ có ngân lượng
rồi, ít nhất cũng còn thời gian một năm nữa, đủ để chúng ta vạch định kế hoạch
chu đáo, chuẩn bị tốt mọi thứ.
Thất phu nhân mỉm cười,
hài lòng.
Chú thích:
11. Đăng Đồ Tử có nghĩa
bóng là "kẻ háo sắc", Thanh La mắng Lưu Giác nhưng chàng ta lại không
hiểu hàm nghĩa này (BTV).