(1) Nhất niệm chi sai: ý nghĩ sai từ ban đầu
“Bánh bao này, ta cho ngươi” đứa trẻ quần áo rách rưới cầm chiếc bánh bao đưa cho ta nói.
Ta nhìn chiếc bánh bao trong lòng khao khát, muốn giơ tay nhận lấy, nhưng lại rụt về. Ta hỏi hắn, giọng điệu ngô nghê: “Thật là cho ta, vậy ngươi không cần ư?”
Đứa bé lại nói: “Ta là nam nhân, có thể nhịn ăn mấy ngày, đói chút cũng không sao. Ngươi mau ăn đi.”
Ta mỉm cười nhanh chóng nhận lấy, vội cắn một miếng bánh bao vào mồm. Chiếc bánh bao tuy đã nguội lạnh, lại lem nhèm bụi đất, nhưng ta đã mấy ngày nay mới có gì bỏ bụng, tuy mất một lúc mới cảm nhận được vị đồ ăn, nhưng chiếc bánh lại làm ta thấy ấm áp bên trong.
Ta ngừng ăn, lúc này mới để ý thấy đứa trẻ đó bờ môi khô nứt, nuốt nước miếng đứng nhìn ta ăn ngấu nghiến, ta bèn bẻ một nửa đưa về phía hắn: “Ta ăn không hết, ăn cùng đi.”
Đứa trẻ mỉm cười, nhận lấy, ngồi cạnh ta cắn nửa chiếc bánh bao đã nguội ngắt. Ta với hắn ngồi bên vệ đường, chia nhau một chiếc bánh bao hắn được người ta bố thí cho. Đám trẻ mồ côi chúng ta, đã như vậy mà quen biết nhau, cùng nhau lớn lên từng ngày.
Mỗi lần hồi tưởng về việc ta và Ấn Không huynh gặp nhau khi xưa, ta đều mỉm cười hạnh phúc. Tuy chúng ta bên nhau từ lúc còn nhỏ, khổ sở không hết, bữa đói bữa no, nhưng tình cảm huynh muội trải qua khó khăn, không thể chia lìa.
Năm đó, Ấn Không mới hơn mười tuổi, ta mới chỉ ba tuổi. Chúng ta đều bơ vơ lưu lạc, mất gia đình vì chiến tranh đại loạn, không nhà không cửa, cùng nhau chia sẻ từ những điều nhỏ nhặt nhất. Nhờ một cái bánh bao của Ấn Không, ta cả đời này coi hắn là huynh đệ, còn hắn luôn coi ta như muội muội, đùm bọc che chở.
Hai năm sau đó, chúng ta gặp được Thanh Hải Thiên Tôn. Thanh Hải Thiên Tôn đi qua vùng này phổ độ chúng sinh, nhìn thấy ta và Ấn Không huynh, liền nói người với hai chúng ta có duyên sư đồ, muốn nhận làm đồ đệ. Ta còn nhớ rõ, Thanh Hải Thiên Tôn vô cùng ấn tượng với Ấn Không huynh, nhưng đối với ta lại đặc biệt lạnh nhạt.
Ta và sư huynh theo Lão sư được năm năm thì sư phụ nhận thêm một học trò nữa tên là Hữu Thừa Thăng. Hắn là người Kỳ Quốc, tuổi trẻ tài cao, mới hai tuổi đã được theo sư phụ học đạo. Chúng ta ba người cùng nhau theo Thanh Hải Tôn Sư, dốc sức tác dục anh tài(1).
(1) Tác dục anh tài: đào tạo, rèn luyện người tài.
Ấn Không huynh tính tình trầm ổn lại ít nói, khiêm nhường lễ độ, trở thành người tiếp thu được thuật thiên cơ của sư phụ tốt nhất, làm sư phụ vô cùng hài lòng.
Hữu Thừa Thăng sư đệ là người tư chất thông minh nhanh nhẹn, rất giỏi xoay xở biến hoá, võ thuật nổi trội, nên cũng được sư phụ yêu mến tán thưởng. Riêng có ta, chuyển bất quá loan(1), cũng không thể hiện được năng lực gì đặc biệt. Tuy đã cố công truyền dạy, nhưng sư phụ thường xuyên phải thất vọng với biểu hiện của ta.
(2) Chuyển bất quá loan: không vào đầu, không thông
Ta học không thành tài, nhưng được sư huynh Ấn Không khuyên răn cổ vũ, nên ta cố công cố sức, tam canh đăng hoả ngũ canh kê(2).
(3) Tam canh đăng hoả ngũ canh kê: chuyên cần học tập rèn luyện
Sư huynh và sư đệ luyện tập năm canh giờ thì ta sẽ luyện tập sáu canh giờ; hai người họ đọc hai quyển sách thì ta sẽ đọc ba quyển sách. Ta biết dù ta không bằng họ, nhưng cũng không thể để thua kém. Sư phụ và huynh đệ đối xử và kỳ vọng ở ta, ta không thể phụ lòng họ.
Ta ngày càng tốt lên, sư phụ nhờ đó cũng đỡ khắt khe với ta. Do chăm chỉ lại quyết tâm, ta dần học được từ sư phụ thuật biến hoá, lại có chút thấu hiểu về võ thuật. Năng lực của ta tuy không chuyên sâu cũng không đạt đến trình độ cao siêu như của Ấn Không huynh và Hữu Thừa Thăng sự đệ nhưng lại là sự tổng hợp năng lực của hai người. Mỗi thứ ta biết một chút, là sự cân bằng giữa tài thuật thần cơ diệu đoán của Ấn Không sư huynh, lại có chút thành thạo võ thuật giống như Hữu Thừa Thăng. Sư phụ thấy ta quyết tâm học hành, cũng ra sức chỉ dậy thêm. Ta ngày càng trở nên tự tin, dần trở thành ngạo mạn. Ý nghĩ mình là sư đồ duy nhất có khả năng cân bằng mọi tài nghệ từ Thanh Hải tôn sư cũng dần xuất hiện trong đầu ta.
Có một lần, ta nghe thấy sư phụ và sư huynh Ấn Không nói chuyện. Sư phụ dặn dò: “Nơi cất giữ tam bảo bối dùng để thống nhất thiên hạ, ngươi tuyệt đối không được để cho ai biết, đợi thời cơ chín muồi, tự khắc minh chủ của tam bảo vật sẽ xuất hiện. Lúc này, người hãy trao chỉ dẫn này cho người đó. Ngươi là đồ đệ ta tin tưởng nhất, lại là người giống với ta nhất, việc này ngoài ngươi ra, hai sư muội Thanh Liên và sư đệ Thừa Thăng của ngươi, không thể cáng đáng nổi.”
Sư huynh Ấn Không nói: “Đồ đệ không hiểu. Chẳng phải sư phụ cũng nhìn ra năng lực của sư đệ và biểu hiện gần đây của sư muội sao? Hai người đó, có thể còn tiến xa hơn đồ đệ.”
Sư tôn Thanh Hải nói: “Sư đệ của ngươi nhanh nhẹn tháo vát, có chí hướng lớn, giờ tuy ở Kỳ quốc chỉ giữ chức nhỏ, nhưng sau này nhất định thăng quan tiến chức, sẽ không chịu gò bó theo chúng ta tu luyện đạo hạnh. Còn sư muội của ngươi ý chí mạnh mẽ, nhưng lại bồng bột, không phải người thích hợp để ta có thể giao lại bí mật này.”
Ta nghe sư phụ nói, trong lòng uất ức không phục. Ta tự nói với bản thân mình: “Ta đã chăm chỉ học tập như vậy, dù thân nữ nhi, nhưng ta chưa bao giờ chịu thua huynh đệ của mình. Chẳng phải ta là người duy nhất trong ba sư đồ của Thanh hải Tôn Sư có khả năng dung hoà pháp lực dự đoán thiên cơ và võ thuật hay sao? Ta không những có thể giữ gìn bí mật này, còn có thể cho sự phụ thấy, ta hoàn toàn có khả năng khống chế nó. Ta phải chứng minh cho người xem, để người thấy ta là đồ đệ sư phụ có thể tin tưởng được.”
Bí mật về nơi cất giữ bảo bối chỉ mình sư huynh Ấn Không được sư phụ cho biết. Ta tìm đến sư huynh, ta nói với hắn: “Ấn Không huynh, ta và huynh từ nhỏ đã bên nhau. Ta tin tưởng huynh hết mình, không giấu huynh chuyện gì, huynh là người thân duy nhất của ta, cũng luôn tin tưởng ta, phải vậy không?”
Ấn Không huynh mỉm cười nhìn ta nói: “Muội đúng là muội muội thân thiết nhất của huynh, không ai hơn.”
Ta nghe Ấn Không huynh khẳng định như vậy, trách móc: “Huynh tự tương mâu thuẫn(1), huynh nói tin tưởng ta nhưng sự thật không phải vậy.”
(1) Tự tương mâu thuẫn: lời nói trái ngược với hành động
Ấn Không huynh ngạc nhiên hỏi: “Vì sao muội muội lại nói vậy?”
“Huynh được sư phụ bàn giao cho bí mật về nơi cất giữ ba bảo bối, nhưng không hề chia sẻ với ta. Huynh không tin ta có thể giữ được bí mật này.” Ta giận dỗi nói.
Ấn Không huynh có chút bất ngờ, nhưng nhanh chóng trả lời: “Không phải ta không tin muội, chỉ là vì sư tôn đã căn dặn như vậy, người có lí do riêng, chúng ta cung kính không bằng nghe lệnh.”
“Huynh cũng như sư phụ, đều cho ta là thân nữ nhi, không bằng nam nhân các người. Chỉ có các người mới làm được việc lớn, còn ta chỉ là nữ nhân thường tình, không đáng tin tưởng, có phải vậy không?” Ta thúc ép Ấn Không huynh.
Ấn Không huynh nhìn ta đang làm mình giận dỗi, thở dài suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chúng ta cùng nhau lớn lên, không có chuyện gì không cùng trải qua. Muội là người ta thương yêu nhất, ta không ngại trao muội mạng sống này. Được, ta nói cho muội biết.
Ba bảo vật là Vọng Nguyệt Ước được trông giữ tại Dục Ngư hồ cốc bởi bộ tộc Nhân ngư, trong khi cặp bảo bối Thiên Lí Nhãn và Thuận Phong Nhĩ đang ở Kỳ Quốc. Trong ba bảo bối, có một bảo vật được cất giữ gần nơi này nhất, là Huyền Bích Kiếm. Kiếm báu được lưu giữ trong tảng băng ngàn năm trên núi Nam Cư, nằm nơi hiểm trở, người thường tuyệt nhiên không thể tìm thấy. Muội hãy giữ kín bí mật này, không được chia sẻ thông tin này cho bất cứ ai biết, tránh để xảy ra hậu hoạ.”
“Huynh yên tâm, ta tuyệt đối không kể với bất kỳ ai.” Ta hứa với Ấn Không huynh, mỉm cười hài lòng.
Ta quyết tâm lên núi Nam Cư, nơi cất giữ Huyền Bích Kiếm. Ta sẽ tìm ra chỗ giấu bảo kiếm, ta muốn chứng minh, ta không phải người thường, ta cũng có khả năng thu phục được kiếm báu. Ta không thua gì Ấn Không huynh, cũng có thể làm một đồ đệ khiến sư phụ tự hào.
Ta lên núi Nam Cư ngay trong đêm, ta dụng thuật, mất không lâu thì tìm được ngọn núi băng ngàn năm. Ta dùng phép thuật phá vỡ lớp băng bảo vệ của Huyền Bích Kiếm. Khi nắm được bảo kiếm trong tay, trong đầu ta hiện lên cảnh sư phụ gật đầu khen ngợi, còn Ấn Không sư huynh mỉm cười tự hào. Sư huynh luôn bảo vệ ta, nói tốt về ta, có gì cũng nhường nhịn ta. Ta có thể mang bảo kiếm về, sư huynh chắc chắn sẽ rất vui mừng cho ta.
Ta dễ dàng thu phục được bảo bối, nhưng không ngờ đã lỡ tay bịt mất toàn bộ đường lên núi Nam Cư do khối băng khổng lồ rơi xuống chặn lối đi. Càng không ngờ vì việc này mà thiên cơ bị tiết lộ, bản thân Thanh Hải Thiên Tôn bị thiên pháp lệnh tội.
Ấn Không huynh khi biết ta bỏ đi tìm Huyền Bích Kiếm, đã vô cùng thất vọng, nhưng lại không trách cứ ta. Khi ta về đến nơi, khoe với sư huynh thanh Huyền Bích kiếm, sư huynh nói làm ta kinh ngạc: “Sư tôn vì để thiên cơ bị bại lộ, đã bị trách phạt, rời đi. Lỗi tại ta, trước hết đã để lộ chuyện cho muội, sau đó lại không ngăn cản muội. Ta là huynh trưởng mà không tính được việc lớn, ta sai rồi.”
Việc này tuy là do ta gây ra, nhưng ta không bị sao, ngược lại, sư phụ lại thay ta gánh tội. Sư phụ đoán biết thiên cơ, muốn để Ấn Không huynh chờ người có thiên mệnh xuất hiện để giao lại chỉ dẫn đi tìm bảo bối. Đây là thử thách dành riêng cho người có mệnh số sẽ lập nên đại nghiệp. Sư phụ đã nhìn thấu tâm can, biết ta muốn chứng tỏ bản thân, sợ ta đi tìm bảo vật, nên mới không để cho ta biết. Ta đã hại sư phụ. Dù vô tình hay cố ý, chỉ là do ta, trẻ người hay non dạ, chung quy vẫn là vì ta tự phụ, đã không nghe lời sư phụ, không tin tưởng quyết định của người.
Điều làm ta khó chịu và mặc cảm hơn nữa, chính là việc sư huynh không cho rằng việc này do mình ta gây nên, sư huynh tự trách bản thân, cho rằng vì mình không tự kiềm chế bản thân, là sư huynh mà không khuyên nhủ được ta là sư muội, gián tiếp khiến sư phụ bị liên luỵ. Ta buồn bực đau khổ, ta thà sư huynh tức giận trách phạt, ta sẽ đương đầu chấp nhận, nhưng sư huynh lại lạnh lùng tự trách bản thân, làm ta không khỏi mặc cảm tội lỗi. Ta quả thật đã gây ra đại hoạ.
Sư huynh dằn vặt, quyết bỏ lên núi Tử Lâm trấn miếu. Ta biết sư huynh ăn năn, lại biết sư huynh chắc đã nhìn thấu thiên cơ, nên mới chọn Tử Lâm núi để ở lại tu hành.
Ta cũng không còn mặt mũi nào nhìn sư huynh, ta quyết quay trở lại núi Nam Cư, trông giữ Huyền Bích Kiếm, nghe lời sư phụ, đợi minh chủ thích hợp của Bảo Kiếm xuất hiện. Ta chỉ có thể làm đến thế để chuộc lỗi với sư phụ và sư huynh. Ta sẽ trợ giúp chỉ dẫn, nhưng nhớ tới việc năm xưa, vì ta thay đổi huyền cơ vận số, ảnh hưởng tới sư phụ và sư huynh, ta tuyệt sẽ không phân tranh, sẽ không nhúng tay vào tranh đấu phàm trần, vô khiên vô quải(1).
(1) Vô khiên vô quải: không vướng bận, tránh xa thị phi
Ta quay lại Nam Cư, vận dụng phép thuật, biến hoá ra đường hầm bí mật thay cho đường lên núi đã bị ta làm băng lở bịt mất. Ta ở trên núi được hơn ba mươi năm, cũng thu nhận được vô số đồ đệ, toàn bộ đều là các nữ tử. Bọn họ nếu không phải là những người không nơi nương tựa, tứ cố vô thân, thì là những người có số phận bi thảm, cùng đường tuyệt lộ.
Ta muốn làm việc có nghĩa, ta muốn thay sự phụ cứu trợ cho đời. Phương Kiếm phái được lập nên trên đỉnh núi Nam Cư như vậy.
Sau này có một nam nhân tên Tiểu Văn, hiền lành thông minh, tấm lòng lương thiện, là người sống ngay trong làng nhỏ dưới chân núi Nam Cư. Hắn là nam nhi có nghĩa tử cao đẹp, muốn tu học thành tài, ra sức cứu giúp dân chúng quanh vùng. Ta lại đọc được trong cơ duyên của hắn có một đoạn đường liên quan đến người mang thiên mệnh mà ta chờ đợi bao năm qua, nên ta phá lệ, nhận hắn vào Phương Kiếm phái, lại chỉ cho hắn con đường bí mật năm xưa ta tạo dựng.
Mười sáu năm trước, ta bế quan chu du thiên hạ, xem xét thế thái nhân tình. Trên đường trở về gặp được Hải Đường, nàng ta từng là công chúa nước Mãn. Trải qua biến cố, bụng mang dạ chửa đang trên đường lưu lạc. Ta hỗ trợ nàng ta sinh nở, đón chào nữ hài nhi của nàng ta và Mộc Kiến Trung, người xưa kia được mệnh danh là chiến thần của Mãn Quốc. Nàng kể ta nghe mọi chuyện, ta thương xót nên thu nhận nàng ta và hài nhi của nàng ta, đưa hai người lên Phương Kiếm phái.
Hải Đường kể với ta: “Nữ hài nhi của chúng ta sẽ có tên là Mộc Cảnh Lan, theo họ của phu quân ta là Mộc Kiến Trung. Chàng vì giải cứu cho hai chúng ta mà bỏ mạng, ta nhất định phải nuôi dạy Cảnh Lan khôn lớn, trả thù cho chàng.”
Hải Đường ôm mối thâm thù sâu sắc với Mãn quốc và Thổ Quốc, luôn nung nấu trả thù cho tình lang đã mất, cho việc Cảnh Lan phải bơ vơ, chưa sinh ra đã không còn phụ thân. Ta coi Mộc Cảnh Lan là con ta, một phần vì muốn che giấu thân phận của Hải Đường, một phần vì muốn đãi ngộ thật tốt cho đứa trẻ.
Ta bất ngờ khi nhận được thư của Ấn Không sư huynh sau hơn ba mươi năm xa cách. Sư Huynh kể cho ta về chuyện ta và sư huynh có thể chuộc lại lỗi lầm năm xưa. Su huynh viết trong thư cho ta biết thời gian tới, trên núi Nam Cư sẽ xuất hiện đoàn người đi tìm Huyền Bích Kiếm, trong đó có người có khả năng thống lĩnh thiên hạ, bảo ta hãy đưa ra chút thử thách, giúp hắn chứng tỏ được bản lĩnh. Ta nghĩ ra cách, tổ chức một hội tỷ thí võ thuật, kết nối với các bang phái chính quy nổi trội nhất trong giang hồ, chính là để minh chủ của bảo kiếm có dịp thể hiện năng lực, thuần phục lòng người.
Ta tính toán biết được bọn họ đã có mặt trên đỉnh Nam Cư, liền cho người đi đón bọn họ tại hang động bí mật trên núi. Ta thấy hắn, người mà ta bao năm nay vẫn chờ đợi, nam tử tên Đắc Di. Người này mắt phượng mày rồng, đúng là nam nhân có chân mệnh thiên tử. Ta nhận ra Mộc Hải, hắn chính là Mộc Kiến Trung năm xưa. Ta dùng thuật pháp, hiểu được thân phận thực sự của hắn. Ta vui mừng cho nghĩa muội Hải Đường, gia đình đã sắp đến ngày đoàn tụ, nhưng cũng đau xót khi nhìn ra Mộc Hải chỉ còn mấy tháng ít ỏi để sống. Giống như sư tôn và sư huynh nói năm xưa, đã là số trời an bài, ta tuyệt không thể làm khác.
Trước ngày bọn họ khởi hành, ta gặp riêng Mộc Kiến Trung, ta dặn hắn hãy tận dụng thời gian còn lại, ở bên Hải Đường và Cảnh Lan thật nhiều, chăm sóc cho hai người bọn họ. Cũng chính vì muốn gia đình họ có thể ở bên nhau thêm lâu, ta không phản đối việc Hải Đường và Cảnh Lan rời đi, mặc dù trong lòng ta thương xót, nhưng ta tự biết, thiên mệnh khó tránh.