To Catch A Bride

Chương 10: Chương 10




Ayisha không muốn di chuyển. Khi Higgins nói đến tắm, cô nghĩ đến một xô nước – đó là cách cô tắm trong sáu năm qua, trừ những ngày họ đi ra sông để giặt giũ rồi xuống đấy tắm với nguyên quần áo.

Đây là một bồn tắm bằng thiếc, đủ rộng để ngồi xuống trong đó – điều thú vị không mong đợi. Và nước ấm, thậm chí còn tuyệt hơn. Nhưng xà phòng thì… cô ngửi lần nữa. Ali đã nói rằng nó có mùi đủ ngon để ăn, nhưng đây không phải là cái thứ mùi tương tự. Đây là mùi của… hoa nhài? Và mùi gì đó khác nữa. Cô phải hỏi Higgins mới được.

Nhưng các đầu ngón tay cô đang bị nhăn nheo, bằng chứng của việc cô đã ở trong nước quá lâu. Cô lấy một bình nước sạch, đứng lên, và dội sạch xà phòng ra khỏi người, tóc và tất cả. Cô bước ra khỏi bồn với cảm giác sạch sẽ và – cô ngửi da mình – thơm tho.

Higgins đã lo tất cả; thậm chí cả những chiếc khăn. Cô quấn tóc trong một cái khăn và lau người với cái khác.

Cabin này là một cabin cao cấp và được thiết kế rất khéo léo, với một chiếc giường đủ lớn cho hai người được đặt thụt vào trong góc, với những chiếc ngăn kéo bên dưới nó. Phía bên mở ra của chiếc giường có các chấn song bao quanh, như một chiếc giường cũi của trẻ con, để đề phòng người nằm trên giường bị rơi ra lúc thời tiết không tốt, cô nghĩ.

Mọi thứ đều được lắp cố định để ngăn ngừa nó dịch chuyển trong trường hợp có bão; một cái bàn viết kiêm bàn ăn được đóng ở phía thấp bức tường và vài cái ghế treo trên móc, sẽ được lấy xuống khi cần.

Cabin khá sang trọng và thậm chí còn có một chỗ riêng biệt , dù nhỏ dành cho tắm rửa, và kế đó là một bồn cầu Bramah với một thùng nước biển để dội.

“Hầu hết đều hiện đại và tiện nghi nhất,” Higgins tự hào nói, rõ ràng có chút thất vọng vì cậu chủ của ông đã không có ở đó để cũng bị ấn tượng thế này.

Đây là cabin tốt nhất của tàu, Higgins giải thích. Nó được đóng cho người chủ sở hữu con tàu này và vợ ông ấy khi họ đi du lịch và thường thì không được dành cho khách, Higgins nói với cô, với một cái nhìn vẻ tự mãn. Ông đã rất vất vả mới có được nó.

Lớp gỗ lót cabin được sơn màu trắng, bản lề và các tay cầm bằng đồng, với đèn dầu treo, và các đồ trang trí khác đều sáng bóng do mới được đánh bóng gần đây. Hai cửa sổ trên đầu giường, nhìn ra đuôi tàu, và một ô cửa lớn trên phía bức tường bên cạnh để lấy ánh sáng.

Con tàu này nguyên là một tàu chiến nhưng đã được chuyển sang chủ sở hữu mới, và mặc dù có vài lỗ châu mai dành cho những họng súng trong trường hợp có cướp biển, nhiều cái bây giờ được lắp vào khung cửa sổ – những ô cửa sổ – để lấy ánh sáng và không khí trong lành vào các cabin hành khách.

Cô giũ các bộ váy mà cô đã mua ra. Rafe đã nói rất rõ ràng rằng cô không cần phải lo lắng quá nhiều – chỉ cần có vài bộ trong chuyến đi là được. Cô sẽ được mặc những bộ đồ thời trang mới nhất một khi họ đã tới London. “Khoảng sáu bộ hoặc hơn và vài món nữ trang thông thường,” anh đã nói thế với cô.

Vấn đề là cô không có ý tưởng cái gì là “nữ trang thông thường”. Và sáu bộ váy có vẻ là một con số khổng lồ đối với cô. Tuy vậy, đã rất rất lâu rồi kể từ khi cô có bất cứ đồ mới nào, cho nên cô đã vui vẻ mà nhận ví tiền của anh và xài tiền của anh. Cô đã mặc một trong những chiếc áo choàng phủ kín mít của chị Laila, che mặt, và đã có được một thời khắc thú vị, chọn lựa vải vóc và mặc cả giá cả tùy thích.

Cô chưa bao giờ làm những việc thế này trước đây, và cô chợt loáng thoáng nhớ hình như mình đã từng xỏ vào những bộ đồ phụ nữ nào đó trước đây, nhưng sự tập trung của cô lúc ấy đã không quá hoàn toàn vào dáng vẻ phụ nữ khiến cô nghĩ mình chưa bao giờ làm việc đấy.

Người thợ may đã rất ngạc nhiên khi cô cởi chiếc áo choàng bên ngoài ra và cho thấy mình là một cậu con trai, và sau đó cởi lớp quần áo con trai bên ngoài ra thì lại là một cô gái. Cô đã bảo người phụ nữ đó là đừng để lộ việc này ra, nhưng cô biết lời đồn thổi cuối cùng cũng sẽ lây lan.

Điều đó không còn quan trọng nữa; cô đang đi đến nước Anh.

Cô nhìn vào những bộ váy áo trải trên chiếc giường của cabin. Trong đoạn đường ngắn đi đến cabin của Rafe, cô đã đi qua vài phụ nữ người Anh, một người Pháp, và vài người cô không thể biết quốc tịch của họ là gì. Không ai trong số họ mặc những bộ váy giống những cái này. Áo của cô, cô quyết định, đẹp hơn của họ.

Các chợ ở Cairo rất tuyệt, và cô đã mua giày, khăn choàng vai và cổ, nhưng không có trang phục theo phong cách Châu u ở bất kỳ đâu, vì thế Ayisha đã chọn vải và đem chúng đến chỗ một thợ may. Cô ta chưa bao giờ may váy áo của người Tây u trước đây, người phụ nữ đó nói thế với cô, nhưng cô ta chắc chắn là mình có thể may được.

Vì thế Ayisha đã vẽ ra vài kiểu và miêu tả những gì cô muốn – từ những ký ức mơ hồ của sáu năm trước và những cái nhìn thoáng qua những người phụ nữ Anh quốc trên đường phố – và người thợ may đã làm hết sức có thể.

Chúng rất đơn giản. Hai ngày không đủ để làm bất cứ gì phức tạp, vì thế tất cả chúng đều là những kiểu đơn giản tương tự nhau: đường cắt đơn giản, với những chân váy đủ rộng để dễ dàng di chuyển, cổ tròn đơn giản, các ống tay dài đến khuỷu tay, và cột bên dưới ngực với một chiếc ruy-băng hoặc một một sợi dây nhỏ. Nhưng người thợ may cũng đã thêm vào kha khá chi tiết nhỏ làm cho mỗi bộ váy đều có nét đặc biệt: một dải vải màu sắc tương phản, một đường viền, vài chuỗi hạt. Ayisha đã thích mê với mọi thứ, thậm chí với cả trang phục lót.

Cô không biết liệu các phụ nữ Anh mặc gì bên dưới các bộ váy của họ. Khi cô còn là một bé gái, cô chỉ mặc một chiếc áo lót, nhưng cô chắc chắn phụ nữ phải mặc nhiều hơn một chiếc áo lót. Nhưng không có thời gian, vì vậy cô chỉ mua những chiếc quần vải bó kiểu Thổ Nhĩ Kỳ ngắn đến đầu gối, và vài chiếc áo vải đơn giản xem như là áo lót.

Trời đang về chiều, vì thế cô đã mặc một chiếc váy màu lúa mì với hoa văn xinh xắn của những chiếc lá xanh và những quả mâm xôi, và xỏ vào chân đôi giày mềm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ mà cô đã mua. Cô rất thích đôi giày này với thiết kế màu đen tương phản và các tua rua đỏ ở phần mũi chân.

Cô mở cánh cửa phòng vệ sinh ra và nhìn săm soi vào hình ảnh phản chiếu trong chiếc gương tròn, nhỏ, nhưng nó đã bị bắt vít vào trong bức tường ở độ cao ngang đầu nên cô không thể nhìn thấy nhiều.

Cô chải mái tóc xơ xác và nhăn mặt với cái bóng của mình. Cô trông như một cậu bé. Cô lẽ ra nên mua vài chiếc mũ phụ nữ, để giấu mái tóc ngắn ngủn của cô đi. Liệu nó có kịp dài ra trước khi cô gặp bà của mình không nhỉ? Cô hy vọng thế. Có lẽ một chiếc khăn choàng… Không phải Rafe nói ở Anh phụ nữ đều quấn khăn đầu sao?

Cô đang nhìn qua khoảng nửa tá khăn choàng mà cô đã mua thì có tiếng gõ cửa. “Là Higgins, thưa cô.”

Cô lao ra để mở nó. “Ông nghĩ bộ đồ mới của tôi thế nào, Higgins?” Cô xoay người để ông có thể nhìn.

Higgins nhìn cô bằng ánh mắt nghiêm túc, sau đó gật đầu. “Rất đẹp, thưa cô.” Ánh mắt ông lang thang qua tóc cô và một cái nhăn hình thành giữa các chân mày ông. “Tiểu thư, liệu tôi có thể nói-”

“Tôi biết, là tóc tôi, phải không? Tôi đã không nghĩ đến việc mua một chiếc mũ, nhưng Ra – Anh Ramsey đã nói rằng ở nước Anh vài phụ nữ cũng đội khăn đầu, vì thế tôi nghĩ có lẽ…”

“Chỉ những người phụ nữ luống tuổi mới đội khăn đầu, thưa cô,” Higgins nói. “Còn dạo này những người trẻ hơn thường để những kiểu tóc ngắn thời trang hơn.”

“Kiểu ngắn? Nghĩa là… ?” Cô ngập ngừng sờ vào mái tóc mình. “Không giống thế này, đúng không?”

“Không hoàn toàn, thưa cô, nhưng…” Trông ông có chút ngượng ngùng. “Tôi chưa bao giờ cắt tóc một phụ nữ, thưa cô, nhưng tôi đã cắt tóc cho cậu chủ, và tất cả bạn bè của cậu khi họ đến chơi.”

“Ý ông không phải là làm cho nó ngắn hơn… đấy chứ?” Cô đặt một bàn tay bảo vệ qua phần tóc cô đã chừa lại.

“Không ngắn hơn quá nhiều, thưa cô, nhưng tạo cho nó kiểu gì đó. Tôi mạo muội cho là với một chút kiểu cọ, nó có thể trông khá đẹp đấy. Đẹp và dày với một chút lọn xoăn dễ thương.”

Ayisha nhìn vào vóc người gọn gàng của Higgins và quyết định. “Làm đi,” cô nói. Nó không thể nào trông tệ hơn nữa, và nếu Higgins cắt tóc cho Rafe, ừm, Rafe luôn trông rất thanh lịch.

“Ngay lập tức, thưa cô, cô vui lòng ngồi lên chiếc ghế này nhé?” Higgins để cô ngồi lên một chiếc ghế và quấn một tấm vải quanh cô. Từ chiếc túi đồ nghề cạo râu của Rafe, ông lấy ra một cái kéo và một chiếc lược. Ông chải tóc cô theo vài kiểu, rồi có vẻ như đã quyết định, và bắt đầu cắt.

Một chút tóc ướt rớt xuống quanh cô. Càng nhiều tóc hơn rơi xuống, Ayisha càng căng thẳng. Ông ấy là một người hầu nam. Ông ấy sẽ tạo cho cô một kiểu tóc nam mất thôi. Điều tốt nhất cô có thể hy vọng là sẽ trông như một cậu con trai thanh lịch.

Xoẹt, xoẹt.

Cô buộc mình phải bình tĩnh. Nếu nó có tệ như cô đã dự tính, cô buồn bã nghĩ, cô sẽ chỉ đơn giản là đội lên một chiếc khăn xếp. Như một bà già. Nó sẽ làm cô thêm vẻ trưởng thành.

Xoẹt, xoẹt.

Cô đã là một thiếu nữ ăn vận như một đứa con trai. Còn giờ thì cô sẽ giống như một đứa con trai ăn vận như một thiếu nữ. Cô biết cái dạng này trông còn lố bịch hơn.

“Xong rồi, thưa cô.” Higgins cẩn thận rút tấm vải ra khỏi người cô để tóc không rơi xuống bộ đồ mới của cô. Có một lượng tóc đáng báo động trên sàn. “Nhìn vào gương xem, tiểu thư.”

Cố không để sự lo lắng của mình lộ ra, Ayisha nhìn vào tấm gương. Và nhìn.

“Higgins…” Cô xoay đầu tới lui.

“Higgins…” Cô nhìn chằm chằm vào hình bóng phản chiếu của mình trong gương, sau đó xoay vòng. “Tôi cứ tưởng ông sẽ làm tôi trông như một cậu bé!”

Higgins cười toe. “Nó thậm chí còn thành công hơn là tôi tưởng, thưa cô. Cô trông rất xinh đẹp.”

Cô lại nhìn mình trong gương. “Tôi cũng nghĩ vậy. Thật.. tuyệt vời.” Cô quay sang ông, đôi mắt đã đầy sương. “Cám ơn, Higgins, cám ơn ông!”

Ông nhíu mày. “Nhưng mà, thưa cô, cô là-”

Cô chớp nhanh để xua đi sương mù trong mắt. “Ồ, đừng bận tâm. Thật ngớ ngẩn, tôi biết, nhưng đã rất lâu rồi kể từ khi tôi cảm thấy mình xinh đẹp. Ồ, Higgins, ông có thể sẽ ghét điều này, nhưng mà-” Cô ôm ông, thật chặt.

Ông thẳng người lên từ cái ôm nhanh đó, trông lúng túng nhưng cũng đồng thời hài lòng. “Không có gì, thưa cô,” ông cộc lốc nói. “Dù vậy cô đừng tạo thói quen với việc này. Tôi giúp gì được sẽ giúp. Tôi biết quả thực rất khó khăn với cô, vì không có một hầu gái.”

“Hầu gái?” Cô bật cười. “Tôi không có một hầu gái nào kể từ khi tôi còn là một cô bé con. Tôi không biết phải làm gì với một người như thế.”

“Cô sẽ học, thưa cô,” Higgins trấn an cô. “Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, nếu cô cần gì, hãy nói với tôi. Giờ thì, thưa cô, trong khi tôi dọn dẹp ở đây và chuyển đồ đạc của cô đến cabin của cô, cô đi lên boong và xem thử cậu chủ Rafe có phải đang về không nhé? Có lẽ sắp trễ mất rồi.”

“Tôi sẽ thu dọn đồ đạc của mình.” Ayisha bắt đầu bỏ chúng trở lại gói đồ của mình.

“Đó là việc của tôi, thưa cô-” Higgins bắt đầu.

“Không, đó là việc của người hầu của tôi,” Ayisha vui vẻ nói. “Cô ta thật lười biếng! Nào, để tôi làm – Tôi vẫn chưa là một tiểu thư cao quý gì đâu.”

Higgins ngập ngừng. “Cô là tiểu thư, cô biết điều đó, thưa cô. Không quan trọng cô đã sống ở đâu, hay như thế nào, cô là một quý cô bẩm sinh – theo nghĩa cao quý nhất của từ này.”

Những lời nói của ông làm Ayisha ngạc nhiên. “Cám ơn ông, Higgins,” cô nói. “Đôi khi tôi tự hỏi mình sẽ xoay sở ra sao ở Anh đây.”

Ông bắt đầu gom lại thành đống món tóc bị cắt của cô. “Cô sẽ ổn thôi, tiểu thư. Đất nước tốt nhất thế giới đấy. Chỉ cần cô học hỏi các quy tắc, chỉ vậy thôi. Mỗi nơi đều có những quy tắc kỳ lạ của nó, đúng không?”

“Đúng vậy,” cô trầm ngâm nói, gập lại gói đồ của mình. Không chỉ là mỗi nơi, mà còn ở mỗi nhóm người khác nhau trong cùng một nơi. Khi còn bé, thì đó là những người bạn của Mama – những quý bà, không một ai là người Anh – và sau đó là các bạn bè người Anh của Papa và khách khứa đến từ khắp nơi trên thế giới – là những thương nhân, đa phần. Và sau đó là các gia nhân. Và với mỗi nhóm, các quy tắc đều khác nhau.

Và trên đường phố, là một bộ quy tắc mới hoàn toàn. Ở đó, học hỏi là một vấn đề sống còn. Việc này hẳn dễ dàng hơn nhiều. Higgins có lý; đó chỉ là vấn đề của việc thực hiện các nguyên tắc.

Higgins đã xong việc dọn dẹp và bắt đầu mở hành lý của Rafe ra. “Bản thân tôi cũng đã phải học cách xoay sở trong một ngôi nhà lớn, thưa cô. Khác biệt rất nhiều với cách tôi trưởng thành, và cũng rất khác so với trong quân đội. Gia nhân trong một ngôi nhà lớn, ừm, họ cũng có thể trưởng giả học làm sang như những người giàu có – vài người còn hơn cả thế.” Ông nháy mắt. “Nhưng tôi là người linh hoạt, vì đã từng phục vụ cho cậu chủ khi cậu ấy ra trận.”

“Tôi cũng là một người linh hoạt,” cô nói.

“Đúng vậy, tiểu thư. Tôi mong cô cũng là người nhanh học hỏi. Cô là người có phẩm chất, thưa cô, hoàn toàn. Nào, đây là chìa khóa cabin của cô. Bà Ferris không có ở đấy lúc nãy. Có lẽ bà ấy ở trên boong. Hầu hết họ sẽ ở đó, chờ tàu nhổ neo. “Ông kéo chiếc đồng hồ ra và lắc đầu. “Tính vừa sát nút, cậu chủ ấy, lần này.”

***

Hoàn toàn có phẩm chất? Một tiểu thư bẩm sinh? Ayisha nghĩ khi cô chuyển đồ đạc của mình qua cabin của cô. Giá như ông ấy biết. Tuy nhiên chúng là những từ rất có tính khích lệ. Cô gỡ cửa, nhưng không có ai trả lời vì thế cô bước vào. Nó nhỏ hơn cabin của Rafe, với một ô cửa sổ thay vì là hai. Hai chiếc giường được gắn cố định ở thành tàu, chiếc này chồng chiếc kia. Chiếc giường thấp hơn có một cái khăn choàng và một cuốn sách nằm trên đó. Của bà Ferris, không nghi ngờ.

Cô nhìn tiêu đề cuốn sách. Những bí ẩn của Udolpho, tác giả Mrs. Radcliffe. Cô liếc vào bên trong và nhìn thấy đó là một cuốn tiểu thuyết và tự hỏi liệu bà Ferris có cho cô mượn sau khi bà ấy đọc xong không. Đã rất lâu rồi kể từ khi cô đọc bất cứ gì.

Ayisha thấy hài lòng. Cô khá thích với cái ý tưởng ngủ trên chiếc giường tầng trên. Cô có thể nhìn ra ngoài khung cửa sổ kia. Cô liếc ra ngoài và nhìn thấy hàu hết các hoạt động trên cầu tàu đã dừng lại. Chỉ có vài người đang đứng quanh đó, vẻ chờ đợi. Con tàu sẽ sớm rời đi. Và Rafe đang ở nơi nào?

Cô nhanh chóng sắp xếp gọn ghẽ đồ đạc của mình và vội vã lên boong, tóm lấy một chiếc khăn choàng ở phút cuối cùng. Khoảng chục người tụ tập dọc theo lan can ở cuối tàu – là các hành khách, cô đoán thế từ quần áo của họ. Cô cảm thấy một chút e dè để sẵn sàng tham gia cùng họ. Bên cạnh đó, không có dấu hiệu gì của Rafe.

Gió mạnh hơn, thổi phần phật những cánh buồm và quần áo của Ayisha. Mái tóc ngắn của cô bay trong gió và sau nhiều năm phải đội khăn đầu, cảm giác thật thoải mái và dễ chịu, nhưng chiếc váy cứ quấn quanh chân làm cô có cảm giác bị phô bày ra. Váy áo của phụ nữ Anh quốc rất mỏng. Cô thấy mừng vì cô có chiếc khăn choàng và không chỉ vì những làn gió.

Cô hầu như không để ý mình có ngực trong khi là con trai – vì chúng là một mối đe dọa và phải được làm cho không thấy được. Việc bó ép làm cho nó phẳng đi. Còn giờ không cần phải làm cho nó phẳng nữa và cảm giác thật… kỳ lạ.

Cô nhìn xuống khi đi dọc qua boong tàu, tránh các hành khách khác. Không bị nảy lên nhiều lắm, nhưng dù vậy… Cô thử bật nhanh người, nhằm kiểm tra thử. Chiếc khăn nảy lên với cô.

Cô sẽ phải kiếm một chiếc cooc-xê. Cô thậm chí còn không nghĩ tới việc mua một cái. Không phải cái gì cũng có bán trong chợ.

Cô dựa người vào lan can và nhìn ra thành phố. Mặt trời đã xuống thấp thấy rõ. Anh ta đã đi gần hai tiếng rồi. Anh ta đang ở chỗ khỉ nào vậy?

***

Thuyền trưởng bắt đầu đưa ra những mệnh lệnh, các thủy thủ đang tất bật tới lui làm việc với những cánh buồm, với các dây thừng đang cuộn lại, và một âm thanh chói tai vang lên cho biết họ đang nhổ neo, và vẫn không thấy bóng dáng một người Anh cao to trong đôi ủng cao đen.

Ayisha sốt ruột đi tới lui trên boong. Đôi giày da mềm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ đang bắt đầu làm đau cô.

Chuyện quan trọng quái quỷ gì khiến anh ta phải vội vàng như thế và mạo hiểm việc bị trễ tàu chứ?

Và sau đó cô phát hiện ra anh, đang sải bước như thể anh có tất cả thời gian trên thế giới này, đang vác một cái bao lớn trông có vẻ nặng trên vai.

Anh đang sải bước lên cầu tàu vừa đúng lúc các thủy thủ nâng nó lên, nói những câu đùa gì đó khiến họ bật cười. Một sĩ quan chào anh, hoan nghênh anh lên tàu.

Cô chờ anh giải thích, nhưng anh gần như đi sượt qua cô, sau đó dừng lại và nhìn chằm chằm.

“Ái chà, nhìn cô kìa,” anh nhẹ nhàng nói. “Cô là một phụ nữ. Và không phải trông cô thật dễ thương sao. Ai làm tóc cho cô thế?”

Một niềm vui ấm áp dâng lên với lời khen kia cướp đi mất lời chua cay cô đã định nói. “Higgins cắt cho tôi,” cô thì thầm.

“Đẹp lắm.” Ánh mắt anh lướt qua cô, bắt lấy mọi thứ. Cô đã đủ ngượng ngùng trước khi anh nhìn cô. Còn giờ thì cô cảm thấy bị phô trần ra. Một nửa trần trụi.

Cô kéo chiếc khăn choàng quấn chặt hơn quanh mình. “Cô lạnh?” anh nói.

“Không,” cô nói nhanh. “Nhưng Higgins và tôi đã rất lo lắng.”

“Về cái gì?”

Cô há hốc. “Về cái gì ư? Anh mém bị lỡ tàu đấy!”

“Higgins biết tôi chưa bao giờ bị lỡ tàu,” anh nói. “Cô nhớ tôi à?” Anh trông có vẻ hài lòng với bản thân.

Cô khoanh hai tay. “Không. Nhưng chuyện gì khiến anh bỏ đi như thế? Còn không cả báo trước và giải thích?”

Anh cười toe. “Cô nhớ tôi.”

“Thậm chí, Higgins và tôi đã quyết định tung đồng xu giành cabin của anh rồi đấy.”

Anh bật cười. “Vớ vẩn, Higgins sẽ không bao giờ đồng ý chuyện đó. Nào, cô không quan tâm tôi mang về gì cho cô à?” Anh giơ chiếc túi lên. “Cô sẽ không ngờ cái gì trong này đâu.”

“Tôi không quan tâm nó là cái gì -”

“Cát,” anh nói.

“Cát?” “Không phải là tất cả…”

“Anh đã xém tí nữa là trễ tàu vì cát ư?” Cô trừng trừng nhìn anh. “Sao anh dám lôi tôi qua Ai Cập, sau đó xém tí nữa là bỏ rơi tôi trên một chiếc tàu xa lạ với một đống người xa lạ, vì một lý do thế này,” cô gắt gỏng nói. Thật khó mà vẫn giận dữ với anh khi anh cứ tiếp tục giữ nụ cười với cô như thế. Cái thói quen này thật khó chịu.

“Tôi nào có bỏ rơi cô hoàn toàn,” anh nói, đôi mắt xanh của anh nhấp nháy. “Cô có Higgins mà.”

Cô thụi vào cánh tay anh. Ngay lúc ấy chiếc áo gi-lê của anh phát ra tiếng ngao ngao nho nhỏ.

“Tiếng gì thế?” Cô nhìn đăm đăm khi một chỗ phình nhỏ trong áo gi-lê của anh chuyển động.

“Quà thượng lộ bình an của cô,” anh nói với vẻ hoan hỉ và lôi ra một con mèo con nhỏ nhắn, màu trắng bạc đốm đen. Đôi tai lớn của nó có một nhúm lông đen ở chóp. Nó trông như một con báo tuyết màu bạc và đen thu nhỏ. Nó nhìn chăm chăm vào Ayisha với đôi mắt lớn màu hổ phách và buồn bã kêu meo meo.

“Một con mèo con,” cô nói. Báo tuyết là một biểu tượng của quê hương mẹ cô.

“Tôi biết. Tôi nghĩ cô thích có bạn đồng hành trên chuyến hành trình dài này.” Giọng anh trầm trầm, có một chút thích thú, và cho thấy anh hiểu nỗi buồn của cô khi phải để Tom lại.

Cô nhìn anh đăm đăm không thốt nên lời, miệng cô méo mó.

“Này,” anh nói trong một giọng dỗ dành. “Tôi nghĩ cô thích mèo.”

Cô bật ra một tiếng cười rách rưới và chớp đi những giọt nước mắt vừa mới bắt đầu. “Anh biết tôi đồng ý mà, và nó thật đẹp, cám ơn anh.”

“Thế thì tốt rồi.” Anh trao con mèo cho cô, và Ayisha ôm nó vào ngực, vuốt ve và thì thầm với nó. Cùng thời điểm đó, boong tàu thình lình giật mạnh bên dưới chân họ và con tàu của họ rời khỏi bờ biển Ai Cập.

Ayisha đứng, nhìn ra ngoài, vuốt ve con mèo của mình, cho đến khi Ai Cập chỉ còn là một đốm nhỏ ở đường chân trời.

“Chúng ta đi xuống dưới, kiếm chỗ cho quý cô bé nhỏ này nhé?” Rafe cuối cùng cũng lên tiếng, và cô gật đầu. Cổ họng cô như có gì đó mắc kẹt bên trong và cô không thể cất nên lời.

***

“Đó là một con thú!” một giọng nói phát ra khi Ayisha bước vào cabin. Một người đàn bà luống tuổi, gầy, thanh lịch đang ngồi trên chiếc giường bên dưới, hai chân duỗi ra, đang đọc sách. Bà ta nâng một cái kính cầm tay lên và nhìn săm soi vào con mèo.

“Dạ phải, một con mèo.”

“Ta có thể thấy, nhưng nó làm gì trong cabin của ta?”

“Đây cũng là cabin của cháu,” Ayisha nói một cách vui vẻ. “Cháu là Ayisha… Cleeve,” cô miễn cưỡng thêm vào, đưa tay ra. Đây là lần đầu tiên cô dùng tên Cleeve. Cô không muốn, nhưng cô phải có một cái họ và đó là họ của cha cô, ngay cả khi cô không được quyền dùng nó.

Bà Ferris nhìn khắp người cô qua chiếc kính cầm tay. “Ta đồng ý dùng chung phòng với một cô Cleeve, chứ không phải với một con vật.”

“Cháu cũng không biết về con mèo con này; nó là một món quà vào phút cuối,” Ayisha giải thích, vuốt ve con mèo. “Nó thậm chí còn chưa có một cái tên. Bà không thấy nó thật xinh xắn ư?”

Bà Ferris khịt mũi. “Ừm, mấy cái đốm của nó thật lạ. Ta chưa bao giờ nhìn thấy một con mèo đốm trước đây. Nó có bọ chét không?”

“Cháu không biết,” Ayisha nói, “Nhưng cháu đã gọi một ít nước ấm rồi. Cháu sẽ tắm cho nó, để đảm bảo.”

Bà Ferris đứng dậy. “Tắm cho một con mèo á? Ta tưởng chúng ghét nước chứ.”

Ayisha mỉm cười. “Không phải con mèo nào cũng thế đâu ạ. Mèo của cháu, Tom, thích nước lắm. Chúng ta sẽ xem thử con này có thế không.” Khi cô nói, một tiếng gõ cửa vang lên.

Là Higgins, mang tới một xô nước ấm, một cái chậu sâu, một cái ca thiếc, một ít xà phòng, và một cái khăn. Ông liếc ra đằng sau nhìn bà Ferris đang quan sát từ chiếc giường của bà, cái kính nâng lên. “Của cô đây, tiểu thư. Tôi sẽ trở lại trong một chốc nữa để đem mấy thứ này đi. Tôi vừa mới chuẩn bị một hộp cát, và thứ gì đó để ăn.”

“Cám ơn ông, Higgins.” Ayisha cho ông một nụ cười ấm áp và nhận nước.

“Người đàn ông đó là ai vậy?” Bà Ferris hỏi khi cánh cửa đóng lại.

“Higgins? Ông ấy là người hầu của Anh Ramsey.”

“Thế ai là Anh Ramsey?”

Ayisha bận rộn tự mình rót nước vào trong cái bát và tự hỏi làm thế nào để giải thích ngắn gọn thôi. “Anh ấy là một người bạn của bà cháu,” cuối cùng cô nói. “Anh ấy hộ tống cháu trở về nhà bà ấy ở Hampshire.”

“Ta hiểu. Ta không thích cái người tên Higgins ấy đi vào trong cabin của ta. Người hầu gái của cô đâu?”

Ayisha ngồi trên sàn, quấn một chiếc khăn qua phía trước cô, và bế con mèo lên. “Cháu không có người hầu gái.”

“Không có một người hầu gái á?”

“Không.” Ayisha đưa con mèo vào trong nước.

“Tại sao?”

Ayisha vờ không nghe thấy. Có gì khó khăn đâu. Con mèo ầm ĩ phản đối, kêu toáng lên, ngọ nguậy và cố leo lên cánh tay cô để ra khỏi nước. Nó có những cái móng nhỏ rất sắc.

Ayisha xoa dịu nó bằng lời nói và hai tay, và cuối cùng, một cách không vui vẻ gì, nó ngồi yên, cái cằm ngập trong nước, ngước nhìn cô với đôi mắt to, trách móc.

“Thấy không, đâu có khó chịu gì đâu, đúng không?” Ayisha nói với nó.

Con mèo có vẻ như xem xét lời nói của cô, sau đó cắn lên ngón tay cô.

“Ối, đồ tiểu yêu,” Ayisha cười khúc khích, không phải là lời mắng mỏ gì. Cô xoa một ít xà phòng trong một bàn tay – lần này ngửi thấy mùi thuốc nhàn nhạt, Higgins hẳn có một nhà máy sản xuất xà phòng, cô quyết định – và nhẹ nhàng xoa nó qua lông con mèo. Cô nhẹ nhàng dội sạch nó, đặt cái khăn lên đùi, sau đó nhấc cục lông ướt khốn khổ kia ra và bắt đầu dịu dàng lau khô nó.

Con mèo hắt hơi hai lần, và phẫn nộ lắc lắc người nó, nhưng rồi ngay sau đó bắt đầu thích thú với chiếc khăn. Nó rên ư ử và bắt đầu nhào nặn chiếc khăn, vồ lấy miếng vải trong các móng vuốt của mình, sau đó quyết định góc khăn là kẻ thù của nó và bắt đầu chiến đấu với các móng vuốt của mình và cắn nó.

Ayisha đặt con mèo lên sàn và dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ. Con mèo tò mò nhìn xung quanh, sau đó, như thể nó không phải vừa mới tắm xong, tiến hành liếm láp khắp người.

Bà Ferris quan sát toàn bộ quá trình với vẻ tò mò. “Tôi luôn nghe nói mèo rất sạch sẽ và con này có vẻ như cũng thế,” cuối cùng bà nói. “Sinh vật bé nhỏ ngộ nghĩnh.”

“Nó thật đáng yêu,” Ayisha đồng ý, mặc dù đó không phải hoàn toàn là những gì bà Ferris có ý muốn nói đến. “Cháu sẽ phải nghĩ ra một cái tên cho nó.”

Con mèo bắt đầu khám phá cabin, đánh hơi và dòm ngó mọi thứ một cách cẩn thận. Ayisha cố nghĩ ra những cái tên. Con mèo đã vồ một kẻ thù tưởng tượng. Vồ? Vì lý do gì đó, điều đó gợi lên một con mèo to béo hơn trong đầu, còn con này thì gầy hơn và rất dễ thương. Ayisha nhìn vào những vết xước trên cánh tay cô. Những cái vuốt nhỏ sắc bén. Claudette?

“Nó đang đánh hơi gì thế nhỉ?” Bà Ferris hỏi. Con mèo đang khịt mũi trong một góc phòng.

Ayisha đột nhiên cảm thấy nó có thể đang tìm một cái gì đó cụ thể. Ayisha xốc nó lên trong một bàn tay. Cô mở cánh cửa cabin ra và cầm lên xô nước dơ với tay kia.

“Cháu sẽ đưa nó theo trong khi đi tống khứ thứ này,” cô giải thích với bà Ferris một cách vội vàng. “Cháu sẽ trở lại ngay thôi.”

May mắn là Higgins đã ở bên ngoài và đã chuẩn bị xong. Đi xuống vài cánh cửa phòng là một nhà kho nhỏ và với một chút hối lộ hợp lý, ông đã thu xếp được một khay cát, cát dự phòng, và các nhu cầu khác mà một con mèo cần cũng được lưu kho ở đó. Cũng có một cái giỏ, với một cái nắp có gắn chốt, vì thế con mèo có thể được nhốt an toàn trong đó khi cần thiết.

Ayisha đặt con mèo vào trong khay cát, và với một chút cổ vũ, con mèo đánh hơi vào cát, cào ra một cái lỗ, và thải vào đó. Nó lấp lại cái lỗ, bước ra khỏi khay, giũ cát ra khỏi các móng vuốt của mình một cách khó chịu, và ngước lên nhìn Ayisha trong một biểu hiện rõ ràng là muốn được bế lên. Đuôi nó ngoe nguẩy và hai cái tai có chóp màu đen của nó giật giật. Meo?

“Tôi sẽ đặt tên cho nó là Cleo,” Ayisha nói, nhấc con mèo lên.

“Nó hống hách, vương giả, xinh đẹp và Ai Cập. Và,” cô thêm vào khi con mèo kêu lên một tiếng meo buồn bã, “đói.”

“Vâng, thưa cô,” Higgins đồng ý. “Tôi đã kiếm cho nó một ít cá dưới nhà bếp rồi.”

***

“Cô du lịch tới Ai Cập với cái anh Ramsey ấy à?” Bà Ferris hỏi cô vào sáng hôm sau.

“Không ạ, cháu gặp anh ấy lần đầu tiên ở Cairo.”

“Làm thế nào mà cô ở đó, lúc ấy – đến Ai Cập, ý tôi là thế?”

“Cháu sinh ở Ai Cập.”

“Cô trông không phải người Ai Cập. Và mặc dù cái họ của cô có hơi lạ, nhưng Cleeve không phải là một cái họ của người Ai Cập.” Bà Ferris đã quyết tâm tìm hiểu xem chính xác Ayisha là ai, để phân loại cô, và tính toán một cách chính xác cô cần được cho bao nhiêu sự tôn trọng – hay không được cho.

“Không.” Ayisha trượt chân vào đôi giày mềm và bế Cleo lên. “Cha cháu được sinh ra ở Ấn Độ.” Điều đó sẽ làm cái bà già tò mò này bối rối. Cô cũng trông không giống người Ấn Độ.

Nhưng Bà Ferris không dễ bị lừa. “Công ty John? Ông ấy đã làm việc cho Công ty John?” Bà muốn nói đến Công ty Đông Ấn của Anh; đó là cái tên mà những người ở đó dùng.

“Không, nhưng bố của ông ấy đã làm ở đấy. Xin thứ lỗi,” Ayisha nói khi cô lẻn ra khỏi cabin. “Con mèo cần đi ị.”

Nhưng bà Ferris vẫn còn chờ đấy với nhiều câu hỏi hơn khi họ quay trở lại.

“Cô có biết ai ở Ai Cập không – là Cairo, cô đã ở đó, đúng không?”

“Vâng, Cairo, nhưng ở đó có quá nhiều người để mà biết tên.” Ayisha đặt Cleo lên giường của cô và cô cũng trèo lên đó, hy vọng bà Ferris sẽ biết nó ngụ ý gì.

Nhưng cuộc điều tra vẫn tiếp tục. “Có người nào quan trọng mà cô biết không?”

Ayisha đảo mắt. “Ừm, có ngài Salt, tất nhiên,” cô bắt đầu, nói ra tên ngài tổng lãnh sự. “Papa biết ông ấy khá rõ.” Cô không nghĩ thế. Ông Salt đã từng đến nhà họ một lần khi cô còn nhỏ, với một du khách người Anh, Viscount gì đó, người đã gọi nhân viên của mình đơn giản là Salt. Salt khi ấy là một họa sĩ trẻ và có cho Papa xem vài bức tranh của mình. Cô đã nhìn họ giữa những chấn song cầu thang, nhưng cô chỉ nhớ ông ta bởi vì tên của ông ta. Nó có vẻ buồn cười với cô khi gọi ai đó là Salt.(*)

(*: Salt nghĩa là muối – ND)

Những năm sau đó, Salt có quay lại Cario, bấy giờ là người rất quan trọng, như là Ông Salt, tổng lãnh sự Anh quốc. Cô đã từng nhìn thấy ông ta rất gần vài lần, nhưng lúc ấy cô đang sống như là một đứa con trai. Và cho dù cô có ăn bận như cô bây giờ, ông ấy vẫn sẽ không biết cô trừ khi cô giải thích cha cô là ai.

Nhưng mọi người bảo ông Salt có nhiều nô lệ, vì thế cô đã không nói gì với ông ta.

“Xùy, ai cũng biết ông Salt,” bà Ferris nói. “Cô có đi thăm ai không? Thế còn-” Bà liệt kê ra một loạt các tên, với mỗi cái tên đó, Ayisha đều nói, “Không, không, không,” và chơi với con mèo của mình.

“Cha cô đã sống ở đâu?”

“Trong ngôi nhà cũ kỹ ở Cairo, nhìn ra sông.”

“Hãy miêu tả nơi ấy.”

Ayisha đưa ra một lời tả mơ hồ.

Còn không đủ gọi là mơ hồ. “Ta tin ý cô là ngôi nhà cũ đó có những người làm công di cư đến,” bà Ferris khịt mũi. “Ừm, nếu đó là nơi cô đã sống…” Rõ ràng Ayisah là một người không tiền.

“Tôi không biết ai sống ở đấy bây giờ,” Ayisha nói, khó chịu. “Kể từ khi cha mẹ tôi qua đời, tôi đã sống với một phụ nữ Ai Cập.”

“Một người Ai Cập?” Bà Ferris nói, khinh miệt rõ ràng trong cái từ đó.

“Vâng, một người phụ nữ rất tử tế và đáng kính trọng vừa mới kết hôn với một người Anh.”

“Ai?”

“Ông Johny Baxter,” Ayisha nói, nghĩ người đàn bà này sẽ im lặng. Ông Baxter là một người tử tế, đẹp trai, và giàu có, cũng như là một người Anh quốc; không ai có thể gièm pha gì ông.

Cô đã sai. Bà Ferris có thể gièm pha bất cứ ai. “Cái người đã biến thành người bản địa phải không?” Bà phát âm nó thành ‘bẩn địa.’ “Một sự sỉ nhục cho đất nước của ông ta.”

“Không phải! Ông ấy là một anh hùng chiến tranh,” Ayisha nóng nảy tuyên bố. “Ông ấy đã bị thương nặng trong trận chiến sông Nile.”

“Vậy thì đó quả là một điều đáng tiếc khi ông ta thành người bản xứ, nhỉ?”

Ayisha nhảy ra khỏi giường và bế Cleo lên. “Con mèo phải đi ị,” cô tuyên bố và ào ra khỏi phòng.

“Nữa à?” Giọng bà Ferris trôi ra ngoài khi Ayisha đóng cửa lại. “Ta hy vọng cái con vật đó không bị bệnh gì đó. Ta sẽ không dùng chung cabin với một con mèo bệnh hoạn đâu đấy.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.