To Catch A Bride

Chương 11: Chương 11




“Trông tôi ổn chứ ạ?” Ayisha hỏi bà Ferris tối đó. “Tôi sẽ dùng bữa ở bàn của thuyền trưởng tối nay.” Flavia là một chiếc tàu buôn thường xuyên chạy theo các tuyến đường thương mại Địa Trung Hải, chuyên chở hàng hóa và một vài hành khách giữa Anh và Phương Đông. Nó thuộc sở hữu của một người Anh sống ở Ý, và thuyền trưởng của nó là một người mang hai dòng máu Ý và Ái Nhĩ Lan.

Bà Ferris tạm dừng việc sửa soạn của mình để nói, “Thuyền trưởng Gallagher nổi danh là một người hòa đồng, tiếc là có những… quan điểm dân chủ.” Bà nói cái từ đó như thể nó để lại một dư vị khó chịu trong miệng. “Vì thỉnh thoảng ông ta sẽ mời một người khách – thuộc bất kỳ thành phần nào; tất nhiên là không với những người hầu – cùng dùng bữa ở bàn ăn với ông ta. Nhưng ta khá nghi ngờ cô sẽ được nhập hội cùng ông ta tối nay.”

Bà chỉnh lại chuỗi ngọc trai ở cổ và nói tiếp, “Được mời dùng bữa tối với ông ấy ngay tối đầu tiên ra khơi là một tín hiệu của danh dự. Tôi sẽ ăn tối ở bàn ăn của thuyền trưởng. Tôi đã khởi hành từ Anh với ông ta, và chúng ta là những người bạn khá lâu rồi. Vì thế cô không cần phải lo lắng về trang phục.” Bà ném tới bộ váy của Ayisha một cái nhìn vẻ chê bai.

“Tôi thích bộ váy này,” Ayisha nói với bà. Cô thực sự yêu thích bộ váy này. Màu của nó hợp với màu mắt cô, và người thợ may đã thêm một dải viền khác màu quanh gấu váy. Dải viền đó là một thiết kế hình học màu đen trên nền màu xanh lá nhạt, và được xen kẽ với những đóa sen màu kem và hồng, và những con cá sấu nhỏ. Mặc nó như mang theo cả một mẫu sông nhỏ với cô. Cô mặc nó với một chiếc khăn choàng lụa có tua rua, màu kem.

Cô khá chắc chắn mình được mời đến bàn của thuyền trưởng; Higgins đã đem đến cho cô lời nhắn của Rafe trước đó, nói rằng anh sẽ đến đón cô lúc sáu giờ và thêm rằng đó là một lời mời danh dự cho bữa tối đầu tiên, và hãy mặc đồ đẹp nhất của cô. Nhưng không ích gì để tranh cãi với bà Ferris.

Cô liếc nhìn người hầu gái của bà Ferris. “Tóc tôi ổn chứ?” Cô đã quấn một chiếc khăn màu lục nhạt lấp lánh ánh kim và thắt gút nó ở quanh đầu.

“Vâng, tiểu thư,” cô hầu nói. “Chiếc khăn đó trông khá hợp thời trang đấy ạ.”

“Woods,” bà Ferris nói theo cái kiểu đàn áp.

“Vâng, thưa bà,” cô người hầu nói và, với một nụ cười mỉm nhanh với Ayisha, quay trở lại bà chủ của mình.

Có một tiếng gõ cửa và Ayisha đứng dậy, nhưng bà Ferris nói, “Cửa, Woods,” và người hầu của bà vội ra mở cửa.

“Là ông Ramsey tới tháp tùng tiểu thư Cleeve,” một giọng trầm trầm lên tiếng.

Một cơn hồi hộp chạy qua Ayisha khi cô nhìn anh. Cô chỉ từng nhìn thấy anh trong chiếc quần chẽn màu nâu và mang ủng, nhưng ăn bận một cách trang trọng, trong một chiếc áo khóac đen thanh lịch, sơ mi trắng nổi bật, và một chiếc áo ghi-lê mà xám nhạt, mùi râu cạo còn mới và với một nụ cười nhàn nhạt hướng vào cô, anh đã lấy đi mất hơi thở của cô.

“Cô trông thật dễ thương,” anh nói. “Chiếc váy khá hợp với mắt cô. Không gì có thể hợp, tất nhiên – vì chúng rất khác thường – nhưng rất rất hợp.” Ánh mắt anh thả xuống gấu váy. “Tôi thấy cô đã mang dòng sông thân yêu theo mình rồi đấy. Một chi tiết độc đáo khác. Nào, cô sẵn sàng cho bữa tối rồi chứ?”

Ayisha gật đầu và bước về phía trước. Nụ cười trong mắt anh làm cô cảm thấy hơi ngượng ngùng. Và bộ đồ này ổn, anh đã nói thế. Và anh hiểu về con sông.

Đằng sau cô, bà Ferris hắng giọng đầy ngụ ý, và Rafe nhìn ra sau Ayisha.

“Bà Ferris, tôi đoán,” anh nói với một nụ cười. “Rafe Ramsey hân hạnh phục vụ bà.”

Bà Ferris đưa tay ra và Rafe cúi xuống trên nó.

“Anh ở đây để hộ tống cô gái này?” bà nói trong một giọng hoài nghi nhàn nhạt.

Ayisha bắt mình nín lặng.

“Đúng vậy,” Rafe xác nhận, đưa cánh tay mình ra cho Ayisha nắm. Cô bước lên và đặt bàn tay lên cánh tay anh. Anh phủ lên nó với bàn tay anh.

Đôi môi bà Ferris mỏng dính. “Cô ta nói anh là bạn của bà cô ta.”

“Đúng vậy.”

“Nhưng tôi cứ tưởng đấy phải là một người đàn ông nhiều tuổi hơn.”

Anh nhướng một bên mày đen. “Tôi sao, thưa bà?” anh nói trong một phong thái chừng mực, lịch sự hơn bao giờ hết, cho thấy đó không phải là chuyện của bà ta. “Cuộc đời đầy rẫy những thất vọng, không phải sao?” Và anh đưa Ayisha đi.

Cô giữ nguyên phong thái bước đi nghiêm trang cho đến khi họ tới cuối hành lang, sau đó cô khẽ nhún nhảy một cái với vẻ hân hoan. “Tôi rất vui vì anh đã thô lỗ với cái bà ấy. Bà ta thật là- thật là-”

“Tôi đã chẳng thô lỗ một chút nào,” anh nói. “Tôi là một người cực kỳ lịch sự.”

“Vâng, thô lỗ một cách lịch sự.” Cô cố tìm từ miêu tả những gì anh đã làm. “Như một quý tộc lịch thiệp.”

“Bà ta đã thô lỗ với cô?” anh nghiêm túc hỏi. “Cô có muốn tôi yêu cầu chuyển bà ta đi không?”

“Anh không thể nào,” cô nói. “Tất cả các cabin đều đã hết chỗ rồi.”

“Nếu bà ấy không tử tế với cô, tôi sẽ yêu cầu chuyển bà ấy đi,” anh nói trong một giọng thuyết phục cô rằng anh có thể làm, lẫn sẽ làm như thế.

Sự quan tâm của anh làm cô cảm động. Chưa ai từng lo lắng về chuyện mọi người không tử tế với cô trước đây. Cô đã phải đối mặt với quá nhiều điều tồi tệ hơn là sự khiếm nhã hoặc không dễ chịu; cô có thể chịu đựng được những sở thích của bà Ferris.

“Không, anh đừng lo. Tôi dù sao cũng đâu gặp bà ấy nhiều. Bà ấy đang đi du lịch với hai phụ nữ khác – tất cả họ đều là quả phụ, và bà ấy dành nhiều thời gian của mình với họ. Với cả anh biết không, tất cả họ đều có những cô hầu gái, nhưng những người hầu đều phải dùng cabin dành cho người hầu ở boong dưới. Woods kể với tôi là có sáu cô gái trong một cabin không lớn hơn cabin của tôi, và tất cả đều phải ngủ trong những chiếc võng. Cô ấy không thích điều đó, nhưng tôi sẽ không thích ngủ trong võng. Tôi chưa bao giờ làm điều như vậy.”

“Cô sẽ không ngủ trong một chiếc võng!”

Cô cho anh một cái nhìn kỳ lạ. “Chỉ mới cách đây không lâu, tôi vẫn phải ngủ ngoài trời trên đất đó thôi.”

“Đúng, nhưng tôi hứa với cô, cô sẽ không bao giờ một lần nữa.”

“Anh không thể biết được.”

“Tôi có thể. Tôi đảm bảo.”

Thật là một câu nói kỳ lạ khi mà anh chỉ là người đang đưa cô về với bà nội của cô. Anh làm thế nào đảm bảo cho một điều như thế? Nhưng quanh khuôn miệng anh thể hiện một sự cáu kỉnh, tức giận, vì thế cô quyết định thôi không vặn hỏi nữa.

Cô trở lại chủ đề về bà Ferris. “Anh không thấy lạ lùng vì bà Ferris không để người hầu của mình trong cabin của bà ấy sao? Không phải anh sẽ thích chia sẻ phòng với người hầu của mình hơn là một người xa lạ sao? Nếu như tôi là một người xấu thì sao? Hoặc ngáy to?”

“Phải, nhưng bà ấy sẽ không muốn trả giá vé cho người hầu bằng giá vé của mình. Giá tiền của cái cabin ấy bảo đảm rằng cô ít nhất là một người thuộc tầng lớp có tiền, cũng quan trọng không kém với người phụ nữ thuộc cùng tầng lớp với mình.”

Cô bật cười. “Tội nghiệp bà Ferris. Bà ấy bị lừa rồi, đúng không?”

Anh nhìn cô vẻ kỳ quặc. “Tại sao?”

“Ai đó thuộc tầng lớp lắm tiền nhiều của ấy?” Cô bật cười cái nữa. “Tôi không một xu dính túi. Dù vậy tôi có một con mèo quý phái, vì thế sẽ có nhiều việc để làm. Bà Ferris không thích mèo, nhưng bà ấy vẫn để tôi giữ Cleo trong cabin.”

“Và Cleo – tên hay lắm, nhân tiện – cô có phiền nếu có bà Ferris trong cabin không? Nó làm tôi ấn tượng vì một con mèo mà được đánh giá cao như thế.”

“Ai cơ, bà Ferris hay Cleo?” Ayisha nói đùa. “Anh nói đúng, nó là một con mèo giàu cảm xúc. Anh nên nhìn thấy nó đã nhặng xị thế nào khi bị bắt tắm.” Cô kể cho anh nghe tất cả về nó.

“Thế tiểu thư Cleo bây giờ ở đâu?” anh hỏi. Họ đã đến phòng ăn và anh mở cửa cho cô.

“Trong cái giỏ của nó trên giường tôi,” cô nói khi bước qua. “Trừng trừng nhìn mấy chấn song và kêu meo meo lên để cho thấy nó không hài lòng thế nào. Nhưng nó sẽ phải quen điều đó. Nó còn nhỏ. Bạn có thể quen với bất cứ gì khi bạn còn nhỏ.”

***

Rafe không nói nhiều trong bữa ăn. Anh nhìn Ayisha đang bỏ bùa thuyền trưởng Gallagher và hai sĩ quan trẻ khác, trung úy Green và Dickinson. Còn có bảy người khác ở bàn của thuyền trưởng: bà Ferris và hai bà bạn, bà Wiggs và bà Grenville; một mục sư trẻ, Mục sư Payne, và vợ – vừa mới cưới và đi thăm Jerusalems trong tuần trăng mật của họ.

Sự quyến rũ của cô với hai sĩ quan kia không phải là điều bất ngờ; ngoài việc xinh đẹp ra, cô còn là người phụ nữ duy nhất chưa lập gia đình dưới năm mươi tuổi tại bàn ăn này.

Nhưng thuyền trưởng cũng ở trong độ tuổi năm mươi, một người đàn ông đã kết hôn hạnh phúc và một người ông đáng tự hào. Rafe khám phá ra tất cả những điều này kể từ khi anh ngồi xuống. Ayisha đã hỏi thuyền trưởng tất cả về gia đình ông và sớm suy luận ra thông tin rằng sau khi sinh ra bảy người con trai, niềm vui và niềm tự hào của ông là ba đứa cháu nội, là cô cháu gái đầu tiên trong gia đình ba thế hệ của ông, cô công chúa nhỏ của ông.

Rafe nhấm nháp ly vang của mình, ngồi tựa lưng, và nhìn Ayisha, như bị thôi miên. Hẳn đã rất nhiều năm kể từ khi cô ngồi ở một bàn ăn theo phong cách của người Anh, nhưng không ai sẽ đoán được điều đó. Cô ăn với với một phong thái tự nhiên và có vẻ như hoàn toàn thoải mái. Và những câu chuyện của cô đều vui vẻ, không phải do đã tập trước hay giới hạn ở những thú vui trần thế tầm thường.

“Điều khiến anh thấy thú vị nhất về Jerusalem khi anh tới đó?” cô hỏi mục sư Payne và vợ anh ta. Chính họ cũng thấy ngạc nhiên với các câu trả lời của mình, và một cuộc chuyện trò về du lịch và những điều mong đợi, cũng như những điều ngạc nhiên thú vị lẫn không thú vị đã nổ ra trong sự tham gia của bất kỳ ai có thể tham gia.

Cô có khả năng giao tiếp với mọi người. Bao nhiêu phần trong khả năng đó phát triển từ đường phố? Đó có phải là một dạng của sự phòng thủ? Tước hết vũ khí của mọi người vì thế họ sẽ không tấn công bạn. Hoặc cung cấp cho bạn những công việc linh tinh.

Bà Ferris thì kém ấn tượng hơn, anh nhận thấy. Bà ta đã tự xem mình như là “khách mời danh dự nhất,” bà đang rất không hài lòng khi cuộc chuyện trò càng lúc càng sôi nổi, mà không phải xoay quanh bà. Cuối cùng sự phát cáu đó đã thắng bà. Bà nghiêng người ra phía trước và nói bằng một giọng lạnh lùng cắt ngang cuộc trò chuyện, “Cô Cleeve, những người bạn của tôi và tôi đang tự hỏi cô có bộ váy kỳ lạ đó ở đâu thế? Màu thì cũng xem là bình thường đi, nhưng còn kiểu cắt may, và cái đường viền đó, với những con cá sấu – thật là… kỳ dị!”

Ayisha nhìn lên, và từ cái nhìn trong mắt cô, cô đã sẵn sàng để trả đũa, tại bàn của thuyền trưởng, hoặc không. “Tôi thích chiếc váy này,” cô tuyên bố.

Rafe quyết định đã đến lúc anh tham gia vào cuộc chuyện trò này. “Với tôi, nó đẹp và thanh lịch. Và bà Ferris này, tôi nghĩ màu của nó thật đặc biệt. Để tìm ra một loại vải hợp với mắt rất đẹp của tiểu thư Cleeve – là một điều kỳ lạ, bà không nghĩ thế sao?”

Lúc này, mọi người đều không hẹn mà cùng nhìn vào mắt Ayisha. Hai người lính cũng tham gia, nhiệt liệt đồng ý rằng đôi mắt của tiểu thư Cleeve thật sự là đẹp.

Bà Ferris càng khó chịu hơn.

Tiểu thư Cleeve nhấp một ngụm vang và từ trên miệng chiếc ly của mình, đôi mắt xinh đẹp cho Rafe một cái nhìn lém lỉnh khiến anh khó giữ cho khuôn mặt mình ra vẻ nghiêm túc.

“Vớ vẩn,” bạn của bà Ferris tham gia vào ‘trận chiến’. “Vải áo có màu hoàn toàn bình thường của eau de Nil.”

“Eau de Nil,” Ayisha lặp lại, rõ ràng rất vui. “Nước sông Nile – mắt tôi có màu areeau de Nil. Cám ơn bà, bà Grenville. Một lời khen thật đáng yêu.”

Bà Grenville cười dở mếu dở, sau đó liếc nhìn bà bạn vẻ tội lỗi.

Rafe lại nói. “Hành lý của tiểu thư Cleeve bị mất trong một tai nạn, vì thế cô ấy đã phải mua mọi thứ tại nước sở tại trong một thời gian ngắn. Tôi nghĩ cô ấy đã làm rất tốt rồi, phải không ạ? Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu cái điểm nhấn khéo léo như đường viền kia bắt đầu một trào lưu thời trang mới ở London.” Anh tựa lưng ghế, biết rằng diện mạo hợp thời trang của chính anh là một sự đánh giá đáng tính nhiệm.

“Cô ấy cũng đã mất người hầu của mình trong vụ tai nạn ấy, chắc vậy,” bà Ferris châm biếm.

“Không, tất nhiên là không,” Ayisha nói với bà ta. “Người hầu của tôi đã nhận nhiệm vụ mới với vợ của một thương gia giàu có.” Đôi mắt cô thách thức Rafe sửa lại lời nói dối kia.

Như thể anh sẽ nhận lời thách đố. Rafe nói trong một giọng lè nhè mát mẻ, “Cô gái đã làm khá tốt công việc của mình, nhưng tất nhiên đó là trước ngày chúng tôi lên đường, và cô ta đúng là đã bỏ rơi tiểu thư Cleeve lúc đang gặp hoạn nạn.” Anh xoay xoay ly vang và nói tiếp, như thể giải thích, “Tôi hiểu mỗi người trong số các quý bà đây dều có những người giúp việc riêng đi cùng…” Anh mỉm cười nhẹ nhàng với các bà bạn của bà Ferris, ngay lập tức các bà đều đề nghị với tiểu thư Cleeve tội nghiệp sử dụng hầu gái của mình bất cứ khi nào cô cần.

Bà Ferris không còn lựa chọn trừ việc a dua theo hoặc bị cho là keo kiệt. “Cô hầu gái của tôi, Woods, sẽ hỗ trợ cô khi nào cô ta rảnh rỗi,” bà ta nói, qua đôi môi gần như đã biến mất.

***

Sau bữa tối, Ayisha và Rafe đi dạo ở boong trên. Trời đã tối, gió ấm áp, hiu hiu thổi, và họ tản bộ trong im lặng. m thanh duy nhất, ngoài tiếng sóng vỗ liên tục, là tiếng cót két của ván tàu, tiếng phần phật của các cánh buồm trong gió, và tiếng kèn kẹt của các sợi dây thừng.

Ayisha dang rộng hai tay, nghiêng người về phía cơn gió, và hít lấy hít để. “Không khí thật trong lành. Tôi không nghĩ là mình từng ngửi được thứ gì sạch sẽ tuyệt vời đến vậy.”

Rafe mỉm cười nhưng không nói gì. Với hai bàn tay đang nắm chặt hai đầu chiếc khăn, trông cô như có cánh và chuẩn bị bay trên biển. Gió làm chiếc váy dính sát vào cơ thể cô, và ánh sáng mờ ảo của vầng trăng lưỡi liềm ve vuốt lên mỗi hõm đường cong.

Mềm mại, mảnh mai, một sự nữ tính được giải phóng.

Miệng anh khô khốc.

Bộ ngực nhỏ, nhưng rõ ràng, hai đỉnh nhọn nhô lên trong không khí mát lạnh. Bị ép xuống trong quá nhiều năm, giờ được trả tự do.

Anh bước ra và nhìn vào màn đêm, với những cơn sóng đen, lấp lánh, với những vì sao và vầng trăng lưỡi liềm.

Trong suốt chuyến hành trình này, cô ấy là – cô ấy phải – như mặt trăng bàng bạc kia, ngoài tầm với của anh. Anh bị danh dự trói buộc để không chạm vào cô. Lady Cleeve đã giao phó sự an toàn và phúc lợi của cô cháu gái bà cho anh. Làm tổn hại cô trên chuyến hành trình về nhà này không nằm trong sự thỏa thuận của họ.

Cũng không phải là mong muốn của anh; dù cô là tất cả khát khao của anh.

Gây ra những suy đoán về chuyện họ đi cùng nhau sẽ chỉ làm tổn hại đến cô.

Anh muốn có được cô vì chính bản thân anh, muốn cô tự nguyện chọn anh, chỉ vì bản thân anh, không phải bị buộc kết hôn với anh vì lợi ích đúng đắn nào đó.

Cô không biết gì về xuất thân của anh; địa vị bá tước không có ý nghĩa gì với cô. Có lẽ cô nghĩ anh giàu có. Một khi cô đã tới Anh, cô sẽ thấy trong khi anh thuộc loại sống sung túc, thì có nhiều người đàn ông giàu có hơn rất nhiều.

Anh không nghĩ cô sẽ quan tâm; ít nhất là anh hy vọng cô sẽ không. Nhưng cô cần phải có sự lựa chọn đó.

“Tôi lẽ ra không nên chọc tức bà Ferris,” anh nói. “Bà ta là loại người sẽ truyền bá những tin đồn độc địa.”

Cô nhún vai. “Anh không thể ngăn những người phụ nữ thích nói những chuyện đó. Và nếu họ không biết gì để nói, họ sẽ dựng chuyện lên. Hơn nữa, bà ta cũng đã bắt đầu chuyện đấy rồi – hay nói cách khác là ngài thuyền trưởng đã làm. Bà ta đã gần như nói với tôi rằng tôi quá tồi tàn và vô danh tiểu tốt để mà xứng đáng với lời mời đến bàn của thuyền trưởng vào buổi tối đầu tiên, và vì thế bà ta đã bực bội ngay từ lúc bắt đầu.”

Cô ngáp. “Đừng hủy đi buổi tối đẹp thế này bằng cách nói về bà ấy. Kể cho tôi nghe về lần đầu tiên anh được đi tàu – đi tàu đúng nghĩa, chứ không phải là trên một con sông hay một cái hồ – mà phải như thế này, trên biển, đến một đất nước khác.”

“Đấy là khi chúng tôi được gửi đến Bồ Đào Nha.”

“Chúng tôi?” Cô hỏi, nhích lại gần hơn.

“Tất cả bọn tôi: Gabe, Harry, Luke, Michael, và tôi. Những người bạn của tôi,” anh giải thích. “Những người bạn thân nhất của tôi. Những người bạn tốt nhất mà một người đàn ông có thể có.”

“Tôi sẽ gặp họ ở Anh quốc chứ?” Gió thổi vạt váy của cô vào chân anh. Nó vờn quanh đùi anh, một cách dịu dàng.

“Cô sẽ gặp Harry và Luke. Không có Gabe. Gabe đã kết hôn với Công chúa Zindaria, vì thế cậu ấy sống ở đó.” Anh sẽ đưa cô đến Zindaria một ngày nào đó, anh nghĩ. Và sau đó bắt mình dừng lại với cái ý niệm đó. Trong anh chao đảo khi nhận ra những suy nghĩ, những khát khao của anh đang dẫn anh đến đâu.

Anh đến Ai Cập để giải cứu một cô dâu, chứ không phải để bắt một cô dâu. Anh nhìn cô và nuốt khan.

Một khoảng dừng ngắn. “Còn Michael?” cô nhắc.

“Michal đã bị giết. Hồi còn trong chiến tranh. Những người tốt bụng chết một cách vô cớ…”

Cô trượt một bàn tay qua cánh tay anh và ấn vào anh nhẹ nhàng, không phải có ý tán tỉnh, anh chắc chắn, chỉ là trong một cách an ủi. Dù vậy, cơ thể anh đã dấy lên phản ứng.

“Lúc đấy anh bao nhiêu tuổi? Trên chuyến tàu đến Bồ Đào Nha ấy?”

“Mười tám.”

Cô thở dài. “Chỉ là một cậu bé.”

Anh nói với vẻ buồn buồn, “Chúng tôi không nghĩ vậy lúc đó. Chúng tôi đã nghĩ rằng mình là những người đàn ông, sẵn sàng cho một chuyến phiêu lưu đầy vinh quang.”

Đó cũng không phải là hoàn toàn sự thật. Anh đã có một cuộn dây lo lắng xoắn sâu lại trong ruột khiến anh đã phải cố hết sức để giấu nó đi, tự hỏi liệu mình có ” phẩm chất tốt,” cho dù anh có hóa ra là một người dũng cảm hay một kẻ hèn nhát. Anh hy vọng mình sẽ là một người dũng cảm, nhưng cho đến khi bạn đối mặt với sự tra tấn bằng lửa, tất cả họ đều đồng ý, bạn không thể biết chắc chắn bạn sẽ bị biến thành gì.

Chúa ơi, lúc đó anh còn rất trẻ. Như thể điều đó cũng đơn giản như bất cứ gì. Một luồng khói xì gà và những giọng thì thầm trầm bổng trôi giạt tới cho anh biết họ đã có bạn trên boong. Anh rút cánh tay mình ra và bước lùi lại. Cô lạ lùng nhìn anh.

“Tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta không dành quá nhiều thời gian với nhau trên chuyến đi này,” anh thấy mình đang nói.

“Tại sao?”

“Bởi vì cô không có người đi kèm và tôi không muốn mọi người xầm xì.”

Cô im lặng trong một lúc. “Có gì quan trọng nếu họ xầm xì sao?”

Anh nhớ lại quan điểm của cô về chuyện những lời đồn đãi: rằng chúng vẫn xảy ra dù thế nào chăng nữa.

Anh hắng giọng, tìm từ ngữ thích hợp để giải thích. “Ở Anh quốc, nếu một người đàn ông – một quý ông, có nghĩa là, một quý ông chưa lập gia đình – nếu bị cho là làm tổn hại một phụ nữ trẻ, anh ta phải có nghĩa vụ kết hôn với cô ấy.”

“Vậy nếu cô ấy không muốn lấy anh ta thì thế nào?” cô hỏi sau một lúc.

“Cô ấy sẽ chịu cùng áp lực kia.”

“Và nếu họ không lấy nhau?”

“Cô ấy sẽ mất đi danh tiếng của mình như là một phụ nữ tiết hạnh, và anh ta sẽ không còn được xem là một người đàn ông có danh dự.”

“Thế thì rất không công bằng, phải không?”

“Phải.”

“Tôi đồ rằng là đó là luật lệ ở Anh.”

“Phải.” Và sau đó, vì thấy câu trả lời có vẻ yếu ớt, anh nói thêm, “Đúng vậy.”

Một khoảng im lặng ngắn khác, chỉ bị phá vỡ bởi âm thanh của biển và các cánh buồm. “Vậy thì nó không khác mấy với Ai Cập. Tôi những tưởng nó sẽ khác. Được rồi,” cô nói nhanh. “Chúng ta sẽ gặp nhau càng ít càng tốt. Thỉnh thoảng sẽ có những cuộc chuyện trò lịch sự, nhưng chỉ khi có ai đó khác hiện diện – đó là điều anh muốn nói, đúng không? Sẽ phải có sự hiện diện của một người đàn ông hoặc một người phụ nữ?”

“Tốt nhất là phụ nữ,” Rafe nói. Cô đang nắm bắt rất tốt. Sự thật là, anh có hơi chưng hửng khi cô đón nhận việc đó nhanh đến thế. Gần như là… nhiệt tình. “Cô sẽ không sao chứ?”

“Tất nhiên,” cô nói, âm thanh nghe như ngạc nhiên vì anh có thể hỏi một điều như vậy. “Tôi vẫn sẽ có mọi thứ tôi cần mà.”

“Cô sẽ không thấy đơn độc sao?”

“Tất nhiên là không. Có rất nhiều người thú vị trên con tàu này để trò chuyện với họ. Và tôi có Cleo, nó sẽ luôn là bạn của tôi. Đừng lo, tôi sẽ tuân theo quy tắc đó. Thực sự sẽ rất khủng khiếp nếu chúng ta bị buộc phải lấy nhau.”

Những giọng nói rầm rì nam tính trở nên lớn hơn và cô liếc ra phía sau mình. “Mấy người quân nhân kia đang đến gần, vì vậy tôi tốt hơn nên rời khỏi chỗ này. Chúng ta sẽ không muốn họ nhìn thấy chúng ta với nhau, một mình trên này ở trong bóng tối với nhau, đúng không? Họ có thể buộc chúng ta phải kết hôn, và chuyện đấy sẽ không thể tưởng tượng được. Chúc ngủ ngon.” Và cô biến mất.

Rafe chớp mắt. Câu nói nghe rất cộc lốc. Gần giống như thể cô nổi giận.

Anh ngẫm nghĩ về chuyện đó, xem xét kỹ lưỡng lời giải thích anh đã nói với cô. Không có gì là xúc phạm cô với những gì anh đã nói, anh quyết định. Nó rất rõ ràng và hợp lý, và anh cũng đã nói rất rõ ràng rằng anh chỉ đang bảo vệ cô từ những hậu quả không mong muốn do một chút thân mật khinh suất. Cô lớn lên trong một nền văn hóa khác, một nền văn hóa nơi mà đàn ông và đàn bà không dễ dàng giao thiệp với nhau. Cô ấy cần được cho một lời gợi ý.

Bất luận thế nào, anh cũng đã nhìn thấy tính khí của cô ấy trong hành động; nó nóng nảy, thẳng thắn và đôi lúc bạo lực. Anh có những vết sẹo để chứng minh điều đó, anh nghĩ, chạm vào cổ nơi những vết cào cô để lại đã mờ đi theo thời gian.

Không, nếu Ayisha không hài lòng, cô đã làm rõ ngay. Cô có hơi giống con mèo của mình theo cách đó.

Hẳn phải có lý do cho việc tại sao anh cảm thấy khó chịu về cách cô bỏ đi quá đột ngột như vậy.

Anh bị dụ dỗ nhập hội với nhóm sĩ quan trẻ kia, làm vài điếu thuốc lá với họ, và tận hưởng một chút không gian hoàn toàn giữa đàn ông với nhau để thay đổi không khí. Nhưng anh không có tâm trạng, anh quyết định. Có lẽ ngày mai vậy.

***

Trong ba ngày tiếp theo anh hầu như không gặp được Ayisha. Một khả năng như thế lại xảy ra trên một con tàu nhỏ thế này – cứ như thể cô đang tránh anh. Cô chắc chắn đã thực hiện các quy tắc một cách nghiêm túc. Anh đồ rằng ai cũng sẽ thế, nếu được cho các luật lệ mà cô đã lớn lên cùng với chúng. Các luật lệ của tổng trấn thực sự nghiêm túc.

Cũng như những luật lệ ở nước Anh, anh ngẫm nghĩ. Có lẽ chúng không chặt tay người dân, nhưng chúng treo cổ họ, hoặc đưa họ sang thế giới bên kia. Cô chỉ là nhầm lẫn sự khác biệt giữa những phép lịch sự xã hội và những luật lệ của một đất nước, chỉ thế. Và anh sẽ giải thích điều đó với cô, nếu cô có bao giờ để anh đến đủ gần.

Cô dường như dán mắt vào vị mục sư trẻ và vợ anh ta. Và khi cô không nhìn họ, cô nhìn ba người đàn bà lắm chiêu kia. Họ đang thật sự khá thân thiện với cô, anh thừa nhận thế khi anh nhìn thấy một trong số họ đang ngồi với cô trên boong tàu, dạy cô đan móc.

Ngay cả các thủy thủ cũng đã bắt đầu thích cô. Thường thì họ không giao thiệp gì với các hành khách, nhưng con mèo kia đã phá vỡ các rào chắn.

Ayisha dẫn theo Cleo lên boong mỗi sáng và chiều để cho con mèo chút không khí trong lành, và chẳng mấy chốc thủy thủ và các hành khách tìm thấy các lý do để ở quanh đó khi sinh vật bé nhỏ kia khám phá và nghịch ngợm mọi thứ.

Ban đầu nó chỉ đơn giản là đánh hơi theo cách của mình với xung quanh, vẫn ở quanh quẩn với Ayisha, nấp dưới váy cô khi bất cứ ai lại gần… chỉ để vụt vồ ra và tấn công vào giày dép và mắt cá chân họ. Nhưng dần dần, khi Cleo trở nên quen thuộc với nơi đó, nó bạo dạn hơn.

Một ngày nọ nó cố leo lên cột buồm và bị mắc kẹt với độ cao gần 2 mét trên đó, và gào lên um trời để được giải cứu. Lần khác, nó đã có một trận chiến một mất một còn với đầu cuối của cuộn dây thừng.

Lúc đầu thì còn thấy nó buồn cười, nhưng khi con mèo ngày càng bạo dạn hơn và thích mạo hiểm nhiều hơn, Ayisha thấy lo lắng. Con mèo sẽ biến mất tăm vào bất cứ cái lỗ nào mà nó tìm thấy, lẻn vào bất cứ góc tối nào, vồ lên bất cứ bề mặt hiện ra lờ mờ nào.

Ngày nọ, Ayishay quay người lại và thấy Cleo, với cái đầu thò ra qua một trong các lỗ thoát nước trong mép tàu, nhìn chăm chú xuống biển, là ngày nó ngừng vĩnh viễn các chuyến ngao du boong tàu. “Nó không ý thức được,” cô giải thích vào ngày hôm sau khi mọi người hỏi cô con mèo đâu. “Tôi nghi nó sẽ cố vồ lên một con sóng hay một con cá heo đi ngang qua.”

Ngày kế tiếp, một thủy thủ tặng cô một bộ dây cột gắn liền với một miếng chì mỏng dài kích cỡ vừa với một con mèo con. “Cái đó sẽ ngăn con mèo rơi xuống biển, thưa cô,” người thủy thủ nói.

Thế là thú tiêu khiển còn lại của ngày hôm đó là xem Cleo chiến đấu với sợi dây của mình. Nó lao vào, lăn kềnh ra rồi gầm gừ và xoắn mòng mòng với sợi dây. Nó cố bỏ chạy khỏi sợi dây rồi xoay ngược lại, meo lên giận dữ khi sợi dây theo sau. Nó ì ra, bám chặt móng và mông lên sàn tàu và nhất quyết không chịu di chuyển khi Ayisha cố dẫn nó đi. “Giống y như dẫn một ổ bánh mì đi dạo.” Ayisha bật cười.

Cứ thế, cô trò chuyện với mọi người, và mọi người nói chuyện với cô. Trừ Rafe. Mỗi khi cô nhìn thấy anh đang đi đến, cô liền bồng con mèo lên và vội đi chỗ khác.

Khi con mèo lần đầu tiên xuất hiện với sợi dây bảo hộ, anh lấy cớ đó để nói chuyện với cô cho từng ấy ngày qua – nhưng nó đã không như mong đợi, dưới đôi mắt của hàng tá chứng nhân vô tình – và thế là cô ấy bế con mèo lên và biến trở lại vào cabin của cô.

Cô đã hiểu sai hoàn toàn, như anh đã nghĩ; không phải là họ không cho phép nói gì, mà chỉ cần… kín đáo. Chết tiệt, anh nhớ cô.

Nhưng cô trơn trượt như một con lươn, dùng tất cả các hành khách khác để ngăn anh lại gần.

Hai sĩ quan trẻ, Green và Dickinson, lịch thiệp tháp tùng cô đi quanh boong vài lần một ngày, và thậm chí còn hộ tống cô và bà Ferris đi ăn. Nhiều lần Rafe gõ cửa cabin của cô, chỉ có tiếng trả lời của Woods rằng Trung úy Green và Dickinson đã đến và đưa các quý bà đi rồi.

Tối nay là tối thứ ba liên tiếp chuyện này diễn ra.

Không ngạc nhiên tại sao bà Ferris lại tử tế với cô, Rafe chua chát nghĩ. Hẳn phải là hàng năm trời rồi bà ta mới có một sĩ quan trẻ trung đẹp trai hộ tống bà đi ăn – nếu đã từng có bao giờ. Anh quyết định không đi ăn, anh đang cảm thấy một chút khó chịu trong người, như thể anh đã ăn phải thứ gì đó không tiêu.

Rafe ngủ tới sáng muộn ngày hôm sau, và khi Higgins đến với nước nóng cho anh lau rửa, ông nhìn chằm chằm vào Rafe với một biểu hiện lo lắng. “Cậu chủ, tôi không nghĩ cậu nên thức dậy. Cậu trông rất tệ, với cả cậu vẫn còn bị ốm mà.”

“Vớ vẩn, Higgins, chỉ là bị một chút kiết lỵ thôi. Những người lính không thể dừng lại chỉ vì bị một chút lỵ.” Rafe cố gắng ra khỏi giường và vã nước lạnh lên mặt. Anh súc miệng và khạc nhổ. Anh đã nôn vài lần tối qua, mặc dù anh chắc chắn là đã không ăn bất cứ gì. Ngay khi nó ra hết khỏi người anh, anh sẽ ổn.

“Cậu đã không còn trong quân đội nữa, cậu chủ,” Higgins phản đối. “Và cậu tốt hơn là nên nghỉ ngơi trên giường trong một hai ngày nữa. Mấy cơn sốt nhiệt đới này, cậu chủ à, cậu phải rất cẩn thận mới được.”

“Vớ vẩn. Chỉ cần cạo râu cho tôi thôi, được chứ? Cái bàn tay chết tiệt này không biết sao lại run lên nữa.”

Anh ngồi trên giường và, chỉ lần này, để Higgins cạo râu cho anh. Anh cảm thấy đầu mình đau buốt và nặng trình trịch. Anh cảm thấy mình có chút sốt và không khỏe lắm, anh thừa nhận với bản thân, nhưng nằm trong một cabin nhỏ ngột ngạt thế này sẽ không làm anh khỏe lên chút nào. Tốt hơn hết là đi lên trên boong và kiếm một chút không khí trong lành.

Bên cạnh đó, chết tiệt anh đi nếu anh sẽ để cô tránh anh thêm một ngày nữa. Anh sẽ dùng hết sức lực mà kéo cô ấy lại nếu cần và giải thích rằng cô đã hiểu sai cái quy tắc ấy rồi. Cô được phép nói chuyện với anh – chết tiệt, anh cần cô nói chuyện với anh.

Với sự giúp đỡ của Higgins, anh đã thay quần áo và bước loạng choạng ra cửa.

“Cậu không nên đi lên trên, cậu chủ à,” Higgins nói.

“Vớ vẩn, tàu đang tròng trành, vậy thôi.” Anh bắt đầu đi ra hành lang và nhìn thấy chủ thể anh khao khát đang đứng trong lối vào cầu thang, chuẩn bị bước lên. “Ayisha!” anh kêu lên.

Cô dừng bước và quay lại.

“Tôi cần nói chuyện với cô,” anh nói, vội vã tiến về phía cô, nhưng con tàu tròng trành làm anh mất thăng bằng và anh phải vịn vào tường.

Cô chạy về phía anh. “Anh sao vậy? Có chuyện gì vậy?” Cô tóm lấy quanh eo anh và đặt vai mình bên dưới vai anh.

“Cậu chủ bị ốm, tiểu thư,” Higgins bảo cô, “Cậu ấy bị ốm tối qua, và tôi đã bảo cậu ấy không nên thức dậy, nhưng cậu ấy nào có chịu nghe đâu?”

Cô áp một bàn tay lên trán anh. Rafe nhắm mắt lại khi anh cảm nhận nó. Bàn tay mềm mại, mát lạnh một cách dễ chịu. Thật mát.

“Anh ấy đang sốt,” cô nói.

“Aaaaaaa!” một tiếng thét đến từ phía sau cô.

Rafe vỗ hai tay qua tai mình. “Ồn quá,” anh nói, liếc nhìn bà ta. “Bà…” anh không thể nhớ tên. Người phụ nữ không có môi. “Bắn chết bà ta đi, làm ồn thế này…” Và anh bắt đầu trượt xuống bức tường.

“Cậu ta bị dịch hạch!” người phụ nữ rít lên. “Cậu ta đã mang nó lên tàu với cậu ta! Ôi Chúa ơi, tất cả chúng ta sẽ chết hết nếu chúng ta không tống khứ cậu ta đi!” Rồi bà ta vừa chạy lên hành lang vừa hét, “Dịch hạch! Dịch hạch! Dịch hạch!”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.