To Catch A Bride

Chương 12: Chương 12




Ayisha cố làm cho Rafe đứng trở lại. Higgins tới giúp. “Bà ta nói gì vậy, thưa cô? Đó không thể là bệnh dịch hạch được, đúng không?”

“Tất nhiên là có thể. Ở Ai Cập, dịch hạch luôn hiện diện cùng chúng tôi.” Cô hướng Rafe về phía cabin của anh. “Thôi nào, hãy giúp tôi – bước đi,” cô giục anh. Anh loạng choạng vài bước, lầm bầm gì đó. Anh đang nóng lên và run rẩy cùng một lúc.

Higgins nhìn chằm chằm vào cô. “Ý cô là dịch hạch á? Bệnh dịch hạch. Bệnh truyền nhiễm?”

“Phải, hầu như lúc nào cũng có, nhưng tệ nhất là trong mùa hè. Giúp tôi đưa anh ấy qua cánh cửa này. Ông đi trước đi, tôi sẽ cố đỡ anh ấy.”

“Nhưng dịch hạch là một kẻ giết người, tiểu thư. Một kẻ giết người khủng khiếp.”

“Ồ, tôi biết, Higgins,” cô nghiêm túc nói. “Cả cha mẹ tôi đều bị chết vì nó. Chúng ta hãy hy vọng và cầu nguyện đây chỉ là cơn sốt gì đó thôi.”

Rafe đứng thẳng dậy và đẩy cô ra. Anh lảo đảo ở ngưỡng cửa, vịn khung cửa để giữ mình đứng thẳng. “Dịch hạch?” anh líu nhíu nói, nhìn vào cô mà mắt như hoa lên. “Tôi bị dịch hạch?”

“Chúng tôi không biết chắc chắn,” cô dịu dàng nói với anh. Một thái độ tích cực sẽ giúp ích được, cô nghe một bác sĩ người Ý nói khi Mama đang hấp hối. Nhưng Papa đã chết, và Mama không còn ai để mà gắng gượng. Chỉ có Ayisha. Không có Papa, Mama bỏ cuộc.

Ayisha nhìn Rafe, đang run rẩy, da anh căng, nóng và tái nhợt. Anh sẽ không bỏ cuộc. Cô sẽ không cho phép!

Cô cố nắm lấy cánh tay anh, nhưng anh giật lại. “Đi đi,” anh ra lệnh. “Đừng tới gần tôi. Không sẽ bị bệnh, không với cô. Không với cô.” Anh giơ hai tay ra để ngăn cô lại. “Ông, cũng vậy, Higgins, đi ra.”

“Nào, xem nào, cậu chủ-”

“Cút!” Rafe gầm lên. Những năm tháng phục vụ trong quân đội đã giải quyết được vấn đề. Higgins bước ra khỏi cabin. Rafe, trông kiệt sức bởi nỗ lực muốn làm theo ý mình, bắt đầu đóng lại cánh cửa, bám vào nó nhằm làm cho nó đóng chặt lại càng nhiều càng tốt.

“Chăm sóc cô ấy, Higgins,” anh ra lệnh. “Đặt mạng sống ông vào nó.”

“Vâng, thưa cậu chủ,” Higgins nói, muốn khóc.

“Anh nghĩ anh đang làm gì vậy?” Ayisha hỏi. “Anh sẽ không phải chết, đồ ngốc. Tôi sẽ không cho phép điều đó.”

Anh mỉm cười. “Hống hách,” anh nói. “Con mèo nhỏ hống hách.” Sau đó anh quay người, tóm lấy một cái bát, và ném nó. “Bát đĩa gì mà khắp nơi,” anh lẩm bẩm. “Giỏi lắm, Higgins.”

“Đấy là dịch hạch, tôi nói rồi mà!” một giọng nói rít lên từ hành lang. “Anh ta phải bị tống khứ đi ngay!”

Ayisha quay ngoắt lại và nhìn bà Ferris đang hối thúc thuyền trưởng, vài sĩ quan của con tàu ở phía trước bà ta. Một nhóm khách hiếu kỳ trông có vẻ sợ hãi chăm chú nhìn từ đàng xa.

“Là dịch hạch! Ông phải tống anh ta ra khỏi tàu, thuyền trưởng,” bà Ferris nhắc lại.

“Bà nghĩ bà đang làm gì vậy?” Ayisha hỏi.

“Là bệnh dịch hạch phải không, thưa cô?” thuyền trưởng hỏi, khuôn mặt cứng rắn.

“Là sốt, nhưng tôi không chắc đấy có phải dịch hạch không.”

Thuyền trưởng nghiêm trọng lắc đầu. “Tôi không đủ khả năng chấp nhận rủi ro ấy. Tôi rất tiếc, thưa cô.”

“Ý ngài là sao, xin lỗi? Ngài muốn làm gì?”

“Cậu ấy sẽ phải được đưa vào bờ. Nếu không nó sẽ lây lan-”

“Và tất cả chúng ta sẽ chết!” bà Ferris rít lên từ đầu kia của hành lang. Những hành khách khác thì thầm lo lắng.

“Anh ấy sẽ không đi đâu cả,” Ayisha nói nhanh. “Anh ấy sẽ vẫn ở đây. Tôi sẽ chăm sóc anh ấy.”

Thuyền trưởng lắc đầu. “Tôi không thể cho phép điều đó, tôi xin lỗi. Tôi phải quan tâm đến sức khỏe tất cả các hành khách của mình. Cậu ấy sẽ được đưa lên một chiếc xuồng và được kéo đến bờ biển gần nhất.”

“Để chết, hoặc bị đẩy xuống biển bởi những kẻ sợ bị lây nhiễm, tôi đồ là thế,” Ayisha nói.

“Không, cô có thể đi cùng cậu ấy nếu cô muốn và sắp đặt cho người dân địa phương chăm sóc cậu ấy.”

“Làm thế nào ông biết có bất cứ dân địa phương nào sẵn sàng – hoặc có thể cho việc đó?” cô tranh luận. Cô sẽ không để họ đưa anh đi. Ai biết điều gì chờ đợi họ trên đất liền? Có thể sẽ có những kẻ cướp bóc, cướp biển, hay thậm chí là những người dân địa phương thù địch.

Thuyền trưởng bẻ bẻ các ngón tay và những người làm của ông quấn những miếng giẻ quanh miệng và mũi họ. Họ đã đeo găng tay và di chuyển một cách có chủ đích về phía cabin.

“Ngăn họ lại, Higgins!” Ayisha ra lệnh.

Higgins bất lực nhìn cô. “Họ có tới sáu người, thưa cô, và ngài thuyền trưởng nữa.”

“Ông ấy sẽ không để cho những kẻ kỳ quặc này bắt anh ấy!” Cô đã gần như khóc lên với cơn thịnh nộ.

“Được rồi, bé à,” Rafe lầm bầm. “Thuyền trưởng có lý. Đấy là điều tốt nhất. Bỏ một người, nhưng cứu được những người còn lại.” Anh loạng choạng bước về phía thuyền trưởng.

“Đứng lại đó, đồ ngốc,” cô hét lên và đẩy mạnh anh ra sau. Anh lảo đảo và loạng choạng lùi vào bên trong cabin. Trước khi bất cứ ai có thể thốt ra từ nào, cô theo anh vào trong, đóng sầm cửa lại, và chốt khóa.

“Cô Cleeve, mở cửa ra. Đừng có vô lý thế,” thuyền trưởng hét lên, đập vào cánh cửa.

“Tôi sẽ nhốt mình trong này với anh ấy và chăm sóc anh ấy. Tôi biết phải làm gì. Anh ấy sẽ không chết,” cô hét trả lại.

“Người của tôi có thể đá sập cánh cửa này trong vài giây đấy,” thuyền trưởng cảnh cáo.

Ayisha tuyệt vọng liếc nhìn xung quanh, và ánh mắt cô sáng lên với một cái hộp chứa hai khẩu súng lục. Cô lật mở nắp hộp và lấy những khẩu súng ra. “Tôi có một cặp súng lục đã nạp đạn trong này,” cô hét qua cánh cửa.” Cô không biết liệu chúng đã được nạp đạn hay chưa. “Người đầu tiên bước qua cánh cửa này chắc chắn sẽ chết. Người thứ hai, cũng thế.”

“Cô ta gạt người thôi,” cô nghe thuyền trưởng nói.

“Cô ấy sẽ không, thưa ngài,” Higgins nói. “Tôi biết những khẩu súng này và chúng đã được nạp đạn, chính xác. Thiếu tá Ramsey luôn lưu tâm và nạp đạn chúng.”

“Có thể, nhưng đứa trẻ dễ thương kia sẽ không làm đau một con ruồi,” thuyền trưởng châm biếm.

“Cô ấy dứt khoát có, thưa ngài. Đằng sau sự dễ thương kia, là một chiến binh bẩm sinh đấy,” Higgins bảo đảm với ông ấy. “Cô ấy đã sống một cuộc sống nguy hiểm, tiểu thư Ayisha. Lúc nào cũng mang theo một con dao và biết cách dùng những khẩu súng.” Ông dừng lại. Ayisha lắng nghe. Cô chưa bao giờ chạm vào một khẩu súng trong đời.

Rõ ràng thuyền trưởng không bị thuyết phục, bởi vì Higgins tiếp tục nói, “Cô ấy đã làm thế với vài tên đàn ông mà tôi biết là – là những kẻ côn đồ, tất nhiên, và xứng đáng bị thế – nhưng nếu cô ấy đã muốn ở trong đó với Cậu Ramsey, Thuyền trưởng, tôi nghĩ ông không còn lựa chọn.”

Cám ơn ông, Higgins, Ayisha thì thầm, và tha thứ cho phút yếu lòng của ông. Liệu thuyền trưởng có tin? Cô tự hỏi.

Một khoảng im lặng và cô áp tai lên cánh cửa, tự hỏi họ đang nói gì.

“Tôi hứa với ông, bệnh sẽ không lây lan ra ngoài cabin này,” cô hét lên. “Higgins sẽ đem cho tôi bất cứ thứ gì tôi cần và để nó ở ngoài cửa. Tôi sẽ lo liệu mọi thứ.”

“Thật là điên rồ, con gái,” thuyền trưởng nói. “Cô đang nói cô sẽ ở đó cho đến khi cả hai người khỏe – hoặc cùng chết đấy!”

“Đấy không phải là điên rồ,” cô đảm bảo với ông. “Nếu đó không phải là bệnh dịch hạch, không có lý do gì để đưa bất kỳ ai vào bờ. Nhưng nếu đó là dịch hạch, tôi có thể giúp đỡ. Cả cha mẹ tôi đều chết vì nó, nhưng tôi thì không, thuyền trưởng – tôi thì không. Hẳn phải có lý do cho điều đó, và tôi tin vào điều đó. Tôi đã sống ở Cairo suốt cả đời mình và tôi chưa bao giờ ngã bệnh.”

Cô nghe nhiều tiếng xì xầm.

“Tôi hứa với các người,” cô nhắc lại, “nếu các người phá cửa vào cabin này, hai người đầu tiên vào đây sẽ chết.”

“Được rồi, cứ làm theo ý cô,” thuyền trưởng nặng nề nói. “Cô cũng là cô gái ngu ngốc nhất mà tôi từng gặp… hoặc dũng cảm nhất.”

Một khoảng lặng, sau đó cô nghe tiếng bước chân rút dần xuống hành lang. Cô loáng thoáng nghe tiếng bà Ferris càm ràm và vài vị hành khách khác tham gia vào. m thanh đó lùi xa dần.

Với đôi bàn tay run rẩy, Ayisha đặt mấy khẩu súng xuống. Chúng đã được nạp đạn rồi ư?

Cô quay lại và thấy Rafe đang nhìn cô. Anh đang run rẩy dữ dội, nhưng da anh trông căng và nóng. “Cô nghĩ cô đang làm cái quái gì thế?” anh nghiến răng trong một giọng khàn khàn. “Ra khỏi đây.” Đôi mắt xanh của anh sáng rực vì sốt và giận dữ.

“Đừng có ngớ ngẩn, anh cần được chăm sóc,” cô bảo anh.

“Tôi yêu cầu cô rời khỏi đây!”

“Tiết kiệm hơi anh đi, tôi không phải là một quân nhân, và tôi không chấp hành những mệnh lệnh,” cô nói. “Higgins, ông vẫn ở đó chứ?” cô gọi qua cửa.

“Vâng, thưa tiểu thư.”

“Mang cho tôi các tấm trải, khăn, thêm chăn đắp, nước nóng, và trà gừng nóng, chanh vàng hoặc xanh, mật ong. Quan trọng nhất là, xem thử có bất kỳ ai trên tàu có vỏ cây liễu hoặc vỏ canh-ki-na không. Hoặc bất cứ gì hữu ích cho một cơn sốt – nếu họ sẽ cho chúng ta, thế nhé.”

“Vỏ canh-ki-na sẽ chặn được cơn sốt sao?”

“Tôi không biết, nhưng nó có thể không gây tổn hại gì. Không ai biết cái gì chữa được bệnh dịch hạch hoặc nguyên nhân gây ra bệnh đó. Có người nói nó có trong không khí, người khác bảo đó là sự phán xét của Chúa, kẻ khác lại nói do chúng ta tiếp xúc với ai đó hoặc ăn phải thứ gì đó. Mọi người đều đoán mò, thế mới phiền. Nhưng tôi biết vỏ canh-ki-na và vỏ cây liễu tốt cho bệnh sốt, vì thế…”

“Có một hộp sơ cứu – cái hộp màu đen ở dưới đáy rương. Nó có vỏ canh-ki-na và vỏ cây liễu. Tôi không thể nhớ ra còn thứ gì khác không. Tôi có nó từ người bào chế thuốc trước khi chúng tôi rời London. Những thứ còn lại, tôi sẽ cố hết sức, tiểu thư.”

“Tốt.” Cô nghe tiếng bước chân ông xa dần và quay lại với Rafe. “Giờ thì chúng ta sẽ phải đưa anh lên cái giường đó. Anh không thể nằm trên sàn.” Cô kéo cánh tay anh, nhưng anh không nhúc nhích. “Anh sẽ phải giúp tôi, Rafe – tôi không thể tự mình nhấc anh lên được.”

“Tôi… muốn… cô… ra ngoài,” anh cố nói.

“Không. Giờ tôi chỉ có thể làm việc này với sự hỗ trợ của anh hoặc là không có, nhưng sẽ khó khăn hơn với tôi nếu anh không giúp.”

Anh chỉ ra cửa, bàn tay anh run lên với cơn sốt. “Cút! Cút ra!”

Cái người cứng đầu này. “Tôi cứ ở đây đấy và không gì anh nói có thể làm tôi bỏ đi được đâu,” cô nói. “Vì thế nếu anh có thể giúp tôi đưa anh lên cái giường kia thì…”

Anh cố tự mình đứng, né tránh cô và dùng đồ nội thất để làm cho mình đứng thẳng chỉ một lúc trước khi ngã sóng soài trên chiếc giường chưa được thu dọn. Anh cố kéo chăn qua người.

“Chưa, chưa được.” Cô tóm lấy cái chăn. “Trước tiên chúng ta phải cởi bộ đồ này ra đã.”

Anh cố đẩy cô ra, nhưng nỗ lực để tới cái giường đã làm anh kiệt sức. Anh run rẩy không dừng được. Cô sờ trán anh. Da anh nóng, khô và anh đang sốt cao.

Cô kéo đôi ủng anh ra, sau đó tới tất. Cô mở cúc và tháo dây mọi thứ cô có thể, sau đó lật anh sang mé bên kia, rồi mé khác, để kéo áo khoác và áo ghi-lê ra. Cô quyết định để lại chiếc áo sơ mi, trong lúc này. Cô có thể dễ dàng kéo nó lên để kiểm tra nách anh.

Nếu là bệnh dịch hạch, sẽ có những nốt sưng dưới nách hoặc trong vùng bẹn. Cô nhắm mắt lại và cầu nguyện, sau đó kéo áo sơ mi và cánh tay anh lên.

“Cô làm gì đó?”

“Kiểm tra nách anh.” Cô cảm thấy nhẹ nhõm. Không có dấu hiệu bị sưng ở đó. Chưa thôi. Cảm tạ Chúa.

Giờ tới bẹn.

Cô tháo cúc mặt trước chiếc quần ống chẽn và bắt đầu kéo chúng xuống dưới chân anh, cùng với chiếc quần cộc anh mặc bên dưới. “Dừng lại. Làm gì?” anh lẩm bẩm.

“Tôi phải kiểm tra vùng bẹn của anh,” cô nói. “Xem thử có bất kỳ bị sưng gì không.”

Anh lục khục như thể cười phá ra. “Không phải bây giờ. Có lẽ ngày mai.”

Cô nhún vai và kéo chiếc quần ống chẽn và quần cộc xuống đôi chân dài, săn chắc của anh. Anh kéo chăn qua người.

“Không có thời gian để mà vờ mắc cỡ đâu,” co bảo anh. “Tôi phải xem qua.”

Anh cho cô một cái lừ mắt, bướng bỉnh, lờ đờ vì sốt và giữ tấm chăn đúng vị trí.

“Tôi đã nhìn thấy hình thể nam giới trước đây rồi,” cô trấn an anh. Cô đã nhìn thấy Ali trần truồng vài lần khi nó còn nhỏ. “Và tôi cần kiểm tra vùng bẹn của anh!”

Cô giật mạnh tấm chăn ra và chết trân. Sự tương đồng giữa những gì cô thấy bây giờ và cái cô đã thấy trong khi tắm cho Ali là… rất rất ít.

Đây là một… người đàn ông. Cô cảm thấy hơi khó thở.

Môt người đàn ông bị bệnh nặng; cô khiển trách mình vì bị phân tâm. Cô thận trọng chạm vào anh, và trượt bàn tay vào mặt trong chân anh – nơi kết nối giữa cơ thể anh, tránh những bộ phận nam tính hết sức có thể và thận trọng cảm nhận.

“Không có gì,” cô thở ra.

“Cái gì?”

“Không có sưng,” cô đảm bảo với anh.

Anh mở một mắt ra. “Tất nhiên là không. Mệt chết được,” anh lẩm bẩm, bất thình lình co giật, và bắt đầu run rẩy lần nữa. Cô nhanh chóng thăm dò phía bên kia, và lần nữa, cảm ơn Chúa, không có nốt sưng.

“Tôi sẽ kiểm tra lại trong một giờ nữa,” cô bảo anh.

“Lạnh,” anh nói, rùng mình dữ dội. Cô kéo chăn lên và nhét anh vào trong. Anh vẫn run. Cô lấy thêm quần áo và nhét chúng quanh anh. Anh rúc vào chúng, hai mắt nhắm lại.

Cô tìm thấy hòm thuốc nhỏ và kiểm tra những thứ bên trong. Có ít nhất một chục lọ có nút đậy chứa các chất khác nhau, nhưng mặc dù chúng có nhãn mác rõ ràng, cô cũng không chắc hầu hết trong số này dùng cho bệnh gì. Có hai lọ cô biết và tạ ơn Chúa vì điều đó: vỏ canh-ki-na và vỏ cây liễu.

Một tiếng gõ nhẹ cửa làm cô giật mình. Cô đứng phắt dậy và vồ lấy những khẩu súng. “Ai?”

“Higgins. Không có ai khác, tôi hứa, thưa cô.”

Cô không chắc liệu có tin ông không. Nếu thuyền trưởng chỉa một khẩu súng vào ông… “Đặt mọi thứ ngoài cửa, sau đó lùi lại,” cô ra lệnh.

Cô chờ cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của ông lùi lại, sau đó thận trọng mở cánh cửa, chỉ hé ra một chút. Cô quan sát kỹ nhưng không thấy ai, vì thế cô thò đầu ra quanh cánh cửa, khẩu súng đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ để đề phòng – ôi Chúa ơi, cô hy vọng mình sẽ không phải bắn. Nhưng không có ai ở đó, chỉ mình Higgins, đang chờ cách mười bước chân.

“Cám ơn ông, Higgins,” cô nói. “Tôi đã kiểm tra anh ấy và không có nốt sưng nào cả. Có nghĩa là không có dấu hiệu của bệnh dịch hạch. Hãy nói với thuyền trưởng thế.” Nó vẫn có thể là bệnh dịch hạch – và cô sẽ không nói dối với họ nếu đúng là thế – nhưng sẽ giúp ích nếu thuyền trưởng và các hành khách được trấn an.

Cô nhanh chóng chuyển mọi thứ vào bên trong cabin. Khóa chốt chắc chắn xong, cô mới kiểm tra xem ông ấy đã mang đến những gì. Mấy cái khăn lau, chăn đắp, mấy cái bát, một ấm lớn trà gừng nóng – ơn Chúa. Và một cái tách có vòi – ơn trời. Với cơn sốt, anh nên uống nhiều nước, và cái này sẽ làm việc đó dễ dàng hơn rất nhiều.

Cô rót một ít trà vào cái tách và rắc bột vỏ canh-ki-na vào. Cô không chắc liệu hai vỏ cây này có phải là hiệu nghiệm nhất không, nhưng chúng nổi tiếng là tốt cho các cơn sốt, vì thế cô sẽ luân phiên hai thứ với nhau.

Cô chờ năm phút, khuấy đều để vỏ cây tan đều, sau đó cẩn thận nâng đầu Rafe và để cái vòi lên môi anh.

“Anh phải uống cái này,” cô dịu dàng bảo anh khi anh rên rỉ và cáu kỉnh cục cựa đầu vì mùi trà. “Là trà gừng với mật ong và vỏ canh-ki-na. Nó giúp anh hạ sốt.” Anh có vẻ như hiểu và ngoan ngoãn uống vào, nuốt xuống từng miếng như thể nó gây đau đớn lắm.

Anh cố được nửa tách, sau đó nằm xuống trở lại, kiệt sức.

Cô nhét chăn quanh anh và trở lại việc kiểm tra các vật dụng Higgins đã mang đến. Có một quyển sách y – của thuyền trưởng, không nghi ngờ.

Cô tìm kiếm lời khuyên. Rải quanh phòng bệnh với giấm, cô đọc, vì thế cô đã rải giấm khắp nơi.

Không giống như nhiều bác sĩ khuyên, cuốn này đưa ra lời đề nghị không khí trong lành, Ayisha đồng ý; cô đã mở hai ô cửa ở mạn tàu ra. Không khí ấm áp, có vị mằn mặn, và sạch sẽ; hẳn là rất tốt.

Bác sĩ đề nghị việc trích máu trong những giai đoạn đầu của những cơn sốt chắc chắn, nhưng chỉ trong những điều kiện nhất định. Cô nhăn mặt. Cô ghét việc lấy máu – bác sĩ đã lấy máu Papa rất nhiều, và cô đã có những ký ức tồi tệ về việc đó.

Nhưng nếu cô phải làm, nếu điều đó sẽ cứu được anh, thì cô sẽ làm… May mắn vì đấy không phải là những điều kiện tiên quyết. Chưa thôi.

Cô đọc thấy nói, trong vài trường hợp của bệnh dịch hạch, một củ hành nướng ngâm trong dầu ô liu được dùng để làm mềm những bạch hạch – đó là thuật ngữ y khoa cho những nốt sưng trong bẹn, cổ và nách – sau đó rạch vào nó để phóng thích mủ. Cuốn sách không nói liệu nó có tác dụng, mà chỉ nói là đã có những người khác làm như thế. Vậy họ có còn sống hay không? Tuy nhiên, nếu nó được đề cập đến trong cuốn sách y khoa thì hẳn đã được nghĩ là đáng để nói…

Cô nuốt khan. Vậy thì tốt, nếu các hạch hình thành, cô sẽ làm điều đó. Con dao cạo của Rafe sẽ đủ bén để rạch bất cứ gì.

Họ đã không thử làm điều đó với Mama và Papa – có lẽ nếu họ thử…

Tích cực lên nào, cô nhắc nhở bản thân. Vẫn chưa có cái hạch nào. Trong khi chờ đợi, cô sẽ cố làm anh hạ sốt.

Anh đã thôi run rẩy sau một giờ đầu tiên và ném hết chăn mền ra, trở mình trằn trọc một cách yếu ớt. “Nóng… nóng…” anh thở hổn hển. “Nước…”

Một cách dịu dàng, cô lau cơ thể anh với nước và giấm, nhẹ nhàng lướt chất làm se ẩm, mát lạnh qua vùng ngực phẳng rộng, bụng rồi xuống cánh tay và chân anh.

Cô cố không nhìn chằm chằm vào cơ thể anh, nhưng cô không thể ngăn mình. Ngực anh rộng và rắn chắc, hiện đang nhấp nhô lên xuống trong hơi thở giần giật, không đều. Cô vuốt ve làn da âm ẩm của anh, quyết tâm đem sức khỏe của anh trở về. Các thớ cơ dày, hiện buông lỏng trong trạng thái vô thức của anh, đã co giật dưới lòng bàn tay cô khi cô vuốt miếng bọt biển qua anh.

Anh là một người giàu có, nhưng không có một chút mỡ trên người. Một người đàn ông của xương và cơ bắp. Thế có phải là tốt? Cô tự hỏi. Cô bỗng dưng nghĩ một người đàn ông mập mạp hơn có thể chống lại sự tàn phá của một cơn sốt tốt hơn.

Cô nhấc hai cánh tay anh lên và lau cho anh với giấm và nước, thử sờ tìm nốt sưng, nhưng không có.

Cô lau xuống cơ thể anh, theo đường lông hình chữ V hẹp lại ở phần rốn, chia đôi phần bụng anh, và hợp nhất với phần rậm rạp ở bẹn. Các bộ phận nam tính của anh mềm, và cô phun nhẹ nước lạnh qua chúng, và thận trọng thăm dò cả hai bên nhằm tìm những nốt hạch. Không có gì.

Cô liếc nhìn khuôn mặt anh và nhìn thấy mắt anh mở, đang nhìn cô. Cô cảm thấy hy vọng dâng trào.

“Không có gì ở đó, không có sưng,” cô bảo anh. “Không có gì phải lo lắng nữa. Anh sẽ khỏe sớm thôi. Chỉ cần ngủ.”

Anh không phát ra âm thanh nào, không dấu hiệu cho thấy anh hiểu và cô nhận ra anh đang nhìn chằm chằm cô với đôi mắt lờ đờ vì sốt, trống rỗng, mơ hồ.

Cô lau xuống đôi chân dài, cơ bắp săn chắc, phủ nhẹ lông. Anh cựa nguậy chúng không ngừng dưới hai tay cô, và bắt đầu trở đầu không yên. Các nắm tay to lớn của anh siết lại rồi mở ra.

Cô cho anh uống một chút trà vỏ cây liễu và anh dịu trở lại.

Nếu cô chưa bao giờ gặp người đàn ông này trước đây, cô sẽ vẫn biết anh là một chiến binh, cô nghĩ khi lau nhẹ cơ thể to lớn, nóng hổi, bồn chồn. Người anh đầy sẹo và sẹo.

Anh có những vết thương nguy hiểm, đe dọa tính mạng. Một vết thương dài sâu bàng bạc màu với các mép sẹo dúm dó chạy dài từ ngay dưới cánh tay đến sát bên sườn; một vết chém từ một thanh kiếm, cô đoán. Một phép màu vì anh đã sống sót với nhát chém đó.

Anh có một lỗ tròn, nhỏ trong vai và một một cái đối xứng trên lưng anh: một viên đạn có vẻ như đã xuyên qua người anh. Một phép màu khác.

Có những vết sẹo trên quai hàm và một cái phía bên trên gần thái dương, cô đã phát hiện ra khi vuốt nhẹ mái tóc ẩm ướt của anh ra sau. Một vài vết sẹo nhỏ gần đây: của chú Gadi và bè lũ của ông ta, cô nghĩ với vẻ tội lỗi.

Cô đã hoàn thành việc lau người cho anh và đứng lùi lại. Với nhiều vết sẹo thế này lẽ ra phải trông rất xấu xí; thay vào đó anh lại trông đẹp lạ.

Thế nhưng tại lúc này đây, anh còn yếu hơn con mèo con của cô.

Đôi mắt cô ngập đầy nước. Cô chớp để xua chúng đi. Suy nghĩ lạc quan lên nào, cô kiên quyết tự nhủ. Hãy suy nghĩ lạc quan!

Anh đang nhìn chăm chăm cô lần nữa, đôi mắt xanh, rất xanh của anh như thiêu đốt cô.

Cô quỳ xuống cạnh giường và vuốt tóc anh ra sau, thì thầm những lời dịu dàng an ủi.

Suốt ngày hôm đó cô lau rửa cho anh nhiều lần, làm dịu anh với những lời lẽ lạc quan và tăng thêm cho anh sức mạnh với mỗi cái vuốt ve. Cô cho anh uống trà vỏ liễu với trà vỏ canh-ki-na và nước lúa mạnh có chứa kali nitrat – thứ được cuốn sách đề cập tới và có trong hộp thuốc.

Anh trở người và lẩm bẩm lầm bầm, và càng lúc càng sốt cao hơn. Cô lau người anh với giấm và nước, hoặc đắp cho anh những chiếc khăn ướt lạnh, và chúng dường như làm cho dễ chịu, nhưng sau đó đột nhiên anh run rẩy, cơ thể anh rung lên với những cơn co giật và cô sẽ giữ những tấm chăn lại và nhét anh vào trong.

Và suốt lúc ấy cô đều cầu nguyện.

Higgins trở lại nhiều lần ngày hôm đó, hỏi thăm người bệnh, đem tới nước nóng và kiểm tra xem Ayisha có cần bất cứ gì không.

Ông đem đến cho cô các bữa ăn, là điều cô không muốn, nhưng ông đứng bên ngoài, khăng khăng rằng cô phải ăn để giữ sức khỏe – và ông nói đúng, cô biết, vì thế cô ăn. Không mùi vị gì.

Vào buổi chiều muộn, Higgin mang lại tất cả đồ đạc của Ayisha. Bà Ferris sợ bị lây nhiễm, ông kể cho cô nghe, và từ chối để chúng – hoặc con mèo con của cô – ở trong cabin lâu thêm nữa.

Mục sư và bà Payne đang trông nom con mèo. Và cầu nguyện cho Ramsey. Và cho Ayisha.

Đêm xuống, nhưng cơn sốt vẫn không hạ. Thay vào đó anh càng nóng hơn, mặc dù mọi việc cô có thể làm đều đã làm.

Qua ô cửa sổ, cô có thể nhìn thấy đường cong của mặt trăng đang treo thâm thấp trên bầu trời. Nó cũng chiếu sáng trên bầu trời Cairo, cô nhắc nhở mình. Họ sống thế nào ở đó nhỉ? Cô nhớ chị Laila, nhớ sự khôn ngoan và trải nghiệm của chị. Laila sẽ biết liệu Ayisha có đang làm đúng hay không.

Ayisha thì không. Cả ngày cô cho anh uống thuốc, nhưng anh dường như đang tồi tệ hơn. Cô cảm thấy bất lực, hoang mang. Điều gì sẽ xảy ra nếu cô không thể duy trì sự sống cho anh?

Cô làm sao chịu nổi nếu anh chết? Cô chỉ mới tìm thấy anh…

Anh run lẩy bẩy. “Lạnh… lạnh…” anh lẩm bẩm.

Cô đã đắp cho anh mọi thứ có thể. Các ô cửa sổ đều mở, nhưng không khí bên ngoài ấm áp và dìu dịu. Cô không thể nghĩ ra thứ gì có thể làm cho anh ấm hơn nữa. Trừ một thứ.

Cô cởi áo sơ mi lót ra và trèo lên giường, trượt vào bên dưới các tấm chăn cho đến khi cô chạm vào anh. Chúa tôi, anh nóng hổi, người anh như một lò lửa, vậy mà anh vẫn run rẩy và lẩm bẩm, “Lạnh, lạnh.”

Cô co người qua anh, ôm anh một cách bảo vệ, muốn truyền sức khỏe của cô, sức mạnh của cô cho anh. Cô đặt lòng bàn tay của mình lên khuôn ngực trần của anh, lên trái tim anh. Cô cần nó ở đó để cảm thấy bất kỳ sự thay đổi nào trong đêm nay.

Cô cuộn người bên anh, cảm thấy tiếng thình thịch thình thịch của nhịp tim anh, mong sao nó vẫn đập mạnh mẽ và đều đặn. Cô sẽ không để anh chết, cô sẽ không. Cô lặp đi lặp lại câu đó trong đầu mình. Cô không chắc mình có đang cầu nguyện hay không.

Kiệt sức, sợ hãi, tỉnh giấc bởi bất cứ động đậy hay thay đổi nào ở anh, cô đã chập chờn như thế suốt đêm.

***

Ngày thứ hai còn nghiêm trọng hơn. Anh nóng hơn, yếu hơn, đau hơn, bồn chồn nhiều hơn. Ba lần một ngày cô cho anh uống nước đun sôi với vỏ cây liễu, và vỏ canh-ki-na xen kẽ nhau. Vào những lúc khác, cô cho anh uống nước lúa mạch với mật ong và lau người anh hoặc cuốn người anh với đống chăn mền, tùy thuộc vào việc anh kêu nóng hay lạnh.

Một ngày một chục lần cô dò tìm các hạch và mỗi lần cô đều thở phào nhẹ nhõm. Bất kể là bệnh gì, thì ít nhất nó cũng không phải là bị dịch hạch. Chưa thôi.

Suốt ngày cô đều lắng nghe tiếng anh.

Nó gần như là liên tục: la hét, hoặc liên tục lẩm bẩm trong cơn mê sảng. Nó chỉ dừng trong những khoảng thời gian ngắn ngủi khi anh chìm vào giấc ngủ. Hoặc bất tỉnh.

Nhưng cô sợ những khoảng yên lặng này. Chúng làm cô sợ chết khiếp.

Ít ra thì khi anh lên tiếng có nghĩa là anh còn sống, cho dù anh không biết gì.

Trong sự tĩnh lặng này, cô nhìn xuống anh, xem mỗi hơi thở, sẵn sàng vồ chộp anh lên nếu anh sẽ chết. Cô không có ý tưởng cô sẽ làm gì nếu anh – cô phải làm anh sống, bằng cách nào đó – nhưng không biết bằng cách nào.

“Anh tốt hơn là chỉ đang ngủ thôi,” cô nói với anh trong sự tĩnh lặng. “Chết không phải là một lựa chọn.”

Hoặc, “Anh đã hứa với bà tôi là sẽ đưa tôi về với bà ấy: anh đã nói anh chưa bao giờ thất hứa, chết tiệt, vì thế đừng có mà thất hứa lần này!”

Nhưng hầu hết thời gian cô đều lặng lẽ nói, “Thở đi… thở đi… thở đi.” Và thở mỗi hơi thở với anh, cho anh.

Thỉnh thoảng, khi anh nói, cô biết được đôi điều về anh. Nhiều câu vô nghĩa. Nhiều câu có nghĩa.

Anh đã nhớ lại những quãng đời đã qua. Cô có thể nói thế khi anh nghĩ là mình trở lại thời chiến tranh, cô có thể nghe anh lẩm bẩm ra những mệnh lệnh rời rạc, xen kẽ với những suy nghĩ, đứt khúc với những tiếng la hét cảnh báo. Đôi lúc hai cánh tay anh vụt lên, hoặc nắm tay anh siết lại, như thể anh đang đánh nhau.

Cô cuộn người bên cạnh anh trên giường, vuốt trán anh và thì thầm những thanh âm dịu dàng, nhẹ nhàng. Và một lần nữa, cô co người ngủ người bên anh đêm đó, lòng bàn tay cô áp lên trái tim anh.

***

Ngày thứ ba vẫn trầm trọng.

Khi cô thay các tấm trải, cô nhìn chăm chăm vào cơ thể trần trụi nằm xoãi ra trên giường của anh. Các cơ bắp mà cô đã vuốt ve vào ngày đầu tiên giờ nhìn thế nào đó… như nhão hơn. Chúng đã rút lại? Cô không biết, nhưng cô nghĩ chắc là thế.

Lẽ nào một cơ thể to lớn, săn chắc trở nên hao gầy như thế? Chỉ trong có hai ngày? Hay là cô đang tưởng tượng?

Cô sờ tìm những nốt hạch; vẫn không có.

Anh nằm yên tĩnh, nhưng vẫn nóng, hơi thở anh khọt khẹt không đều, ra vào như một ống thổi bị gỉ.

Anh không nói nữa. Giờ thì cô nhớ những câu mê sảng không mạch lạc đã làm cô lo lắng không yên trước đó.

Cô nói chuyện với anh, ra lệnh cho anh phải sống, đảm bảo với anh là anh sẽ khỏe lên, nhiếc móc anh vì đã không chịu cố gắng nhiều hơn.

“Anh sẽ không chết, Rafe, anh có nghe thấy tôi nói không? Tôi cấm!”

“Anh sẽ khỏe lên.” Một giọt nước mắt bất thần trong cơn giận dữ rơi xuống má cô. “Phải tích cực lên chứ!”

Cô gởi trả lại đồ ăn chưa được đụng đến, lờ đi những lời khiển trách của Higgins. Cô không thể ăn khi anh vẫn còn nằm và yếu ớt như thế. Cô thấy muốn bệnh.

Cô cho anh uống trà thuốc, với nước lúa mạch để lấy sức, và anh nuốt nó xuống, chỉ một chút xíu. Vẻ yếu ớt của anh làm cô thấy sợ.

Khi cô cho anh uống liều thuốc vỏ cây liễu vào đêm đó và trượt vào bên cạnh anh, cô cầu nguyện một cách thành khẩn cho mạng sống của anh được giữ lại. Cô ôm anh vào bên cô, tay đặt lên tim anh, cảm thấy mỗi hơi thở khòn khẹt, vào ra, vào ra. Cô quá sợ để ngủ.

Nhưng vào khoảng rạng sáng, nhịp tim và nhịp thở đều đặn của anh đã ru cô ngủ một giấc ngắn mặc cho cô không muốn.

Và trong ánh sáng nhàn nhạt của buổi bình minh, cô tỉnh giấc trong cái lạnh.

Cô ngồi bật dậy và hét lên, “Khônnnng.”

Và bên cạnh cô, anh cục cựa người.

Cô nhấp nháy mắt. Áo mặc trong của cô bị ướt.

Cô thấy lạnh bởi vì áo trong của cô bị ướt và gió từ cửa sổ thổi vào làm cô lạnh.

Áo cô bị ướt bởi vì người anh ướt. Anh đang ra mồ hôi. Cô sờ trán anh. Nó mát lạnh dưới những ngón tay cô.

Ôi Chúa ơi, anh đang ngủ một cách bình thường, hơi thở anh sâu và đều. Cô áp lòng bàn tay vào tim anh và cảm thấy nhịp đập mạnh và đều đặn.

Cơn sốt đã qua. Nước mắt thi nhau rớt xuống má cô không thể kiềm chế. Anh ấy sẽ sống. Anh đã hết sốt rồi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.