To Catch A Bride

Chương 15: Chương 15




“Anh thật sự sẽ giao con trai đầu lòng của anh cho anh trai anh nuôi ư?” Ayisha hỏi khi họ làm chuyến đi dạo cuối cùng trong ngày. Đi trước họ là Cleo, giờ đã quen với vị trí dẫn đầu của nó, oai vệ bước trong bóng tối.

“Sao cơ?” anh hỏi. Anh đã đi được hàng dặm. Những chuyến đi dạo thế này, ba lần một ngày giữa thanh thiên bạch nhật, là sợi dây cứu đắm đời anh – anh không có ý nói tới cái sợi dây cột con mèo kia. Bị nhốt trong cabin với Ayisha là sự trừng phạt của thần Tantalus (*); anh có thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nhưng không thể chạm vào hay nếm thử.

(*: theo thần thoại Hy Lạp, tiểu thần Tantalus bị thần Dớt trừng phạt vì tội nói nhiều – ND)

Cô trèo lên giường mỗi đêm, với một chút cứng nhắc, khăng khăng ngủ ở phía bên ngoài giường, còn dọa là sẽ ngủ trên sàn nếu anh nhích nhiều hơn một inch về phía cô.

Nhưng trong khi ngủ, cơ thể cô như hát một bài hát khác. Trong khi ngủ, cơ thể cô tìm kiếm anh, xích lại gần hơn cho đến khi người cô úp lại theo chiều dài cơ thể anh, tay cô đặt trên trái tim anh, má cô áp vào vai anh, chân tay cô quấn quanh anh. Trong khi ngủ, cô ấm áp và mềm mại, chia cách anh chỉ bằng một lời hứa – và nó đang làm anh phát điên. Anh ngủ không yên giấc, và mỗi sáng thức dậy đều cứng như đá với sự thèm muốn.

“Xin lỗi, tôi đãng trí quá,” anh nói. “Em hỏi gì cơ?”

“Anh nói là sẽ cho đứa con trai đầu lòng của mình cho anh trai anh nuôi.”

“Tôi nói Lavinia và anh trai tôi đã thỏa thuận với nhau điều đó. Tôi thậm chí còn không được hỏi ý kiến.”

“Ừm, vậy anh có không?”

“Cho con tôi á?” Anh nhìn ra biển trong một lúc lâu. “Không bao giờ,” anh lặng lẽ nói. “Không trong khi tôi còn thở là còn bảo vệ nó.”

Cô trượt cánh tay mình qua anh. “Vậy tại sao họ nghĩ anh sẽ đồng ý với một điều như thế?”

Anh lắc đầu. “Tôi nghĩ họ – ừm, George, nghĩ là anh ấy đang làm một việc tốt đẹp cho tôi. Có lẽ anh ấy nghĩ bởi vì tôi sẽ không bao giờ ổn định, một đứa con trai sẽ làm cảng chân tôi.” Chính xác đó là lời của George.

Cô cau mày. “Ý anh là sao?”

“Anh ấy nghĩ một đứa con trai sẽ làm tôi sống chậm lại, ngăn tôi tìm kiếm niềm vui.” Sau tám năm ở chiến trường, Rafe và những người khác quả thực có chút nổi loạn và chơi bời. Nhưng trong năm vừa qua, từ “vui” đã trở nên vô vị và biến thành thứ gì đó gần giống như… tuyệt vọng.

Tám năm là một sĩ quan đã làm cho một người đàn ông quen với những trách nhiệm, có một mục đích sống, và thoát khỏi những điều đó là… khó khăn. Rafe không nghĩ nhiều về tương lai – hồi còn trong quân đội, anh đã gần như tin dị đoan từ đó. Nhiều quân nhân cho rằng nếu bạn có kế hoạch cho tương lai, bạn chắc chắn sẽ bị giết, vì thế anh đã chỉ sống cho hiện tại.

Nhưng khi chiến sự qua đi và anh quyết định phản lại nguyên tắc của mình – anh không thể chịu đựng được sự tập luyện như vô tận của một người lính Hyde Park – anh nghĩ mình sẽ đảm nhận một vài chức vụ gì đó trên một trong số những sản nghiệp của gia đình. Khi anh còn là một cậu bé, vài người chú của anh đã điều hành những hãng buôn của gia đình, và anh nghĩ mình khá thích hợp công việc đó.

Biết rằng tất cả những gì gia đình bạn muốn về bạn – cho phần còn lại của cuộc đời bạn – là bảo trì nòi giống trong một lúc nào đó, giống như là bị một cái tát vào mặt.

Và nếu việc đó bị nói ra dù chỉ là một chút sự khinh miệt hay hằn học, Rafe sẽ tát trả lại – thật mạnh. Nhưng George đã nghĩ rằng anh ấy đang làm điều tốt cho Rafe. George đã rất nghiêm túc tìm kiếm một cô dâu mà anh ấy cho là hoàn hảo cho Rafe: một người sẽ ít gây phiền phức cho anh nhất.

Vấn đề là, Rafe thích gặp rắc rối.

Và bi kịch là ở chỗ đó, Rafe không thể dứt khoát từ chối lời đề nghị thân thiện đầu tiên của anh trai kể từ khi cha họ chết. Vì thế anh đã đào tẩu đến Ai Cập.

“Không phải tôi nói về chuyện đứa trẻ,” Ayisha cắt ngang những suy tưởng của anh. “Ý tôi là anh ấy nói thế có ý gì, anh sẽ không bao giờ ổn định ấy?”

“Đó là sự thật. Tôi đã không có một chỗ ở cố định kể từ khi…. Tôi không biết thật sự là khi nào. Không phải kể từ khi tôi còn là một cậu bé.” Anh chau mày, vừa đủ để nhận thấy. Thực sự đã quá lâu rồi chăng?

“Khi cha anh gởi anh đi.” Cô nói trong cái kiểu cho thấy cô hiểu lý do tại sao anh không bao giờ, không bao giờ gởi một đứa con đi xa khỏi anh. Đó không phải là vì anh thấy buồn khi sống với Bà – anh rất thích sống ở Foxcotte và anh yêu bà anh. Mà là biết rằng mình kém quan trọng thế nào đối với người cha đẻ của mình…

Không một đứa con nào của anh sẽ có bao giờ nghi ngờ chúng có quan trọng hay không.

“Phải, tôi đã sống với bà ngoại, và đó là nhà tôi khi đó. Đấy là sau khi bà qua đời…” Chúa lòng lành, thật sự đã rất lâu rồi kể từ khi anh ổn định ở bất cứ nơi nào rồi ư?

Cô nhìn anh chăm chăm. “Nhưng gia đình anh giàu có mà,” cô nói, nghe có vẻ khá đau lòng. “Làm thế nào mà anh không thể có một ngôi nhà được?”

Cô đang nghĩ anh hẳn đã sống ngoài đường phố, như cô đã, anh nhận ra. Anh bật cười và trượt một cánh tay quanh eo cô. “Không, em chỉ đang tưởng tượng ra những thứ dễ sợ thôi. Tôi đã có một quãng đời thú vị, tôi xin đảm bảo. Sau khi Bà qua đời, tôi chưa bao giờ đi về Axebridge – nhà cha tôi, giờ là nhà George – nếu tôi có thể tránh được. Vào những ngày nghỉ ở trường, tôi ở lại với Gabe và Harry, hoặc Luke. Và sau đó quân đội là nhà tôi. Và kể từ đấy, ừm, tôi ở với bạn bè mình, và khi ở Lodon, tôi có những căn phòng cho thuê.”

“Anh không thể mua một ngôi nhà sao?”

Anh nhún vai. “Để làm gì? Hơn nữa, tôi có sở hữu một ngôi nhà – bà ngoại đã để lại nhà của bà cho tôi khi bà mất.” Anh không biết việc đó cho đến khi anh hai mươi mốt tuổi và viên luật sư của gia đình đã viết thư cho anh ở Tây Ban Nha. Cha anh đã bổ nhiệm một viên quản lý bất động sản và ngôi nhà được cho thuê. Rafe cũng thấy không cần nó.

“Vậy thì anh cũng có một ngôi nhà.”

“Không phải, tôi sở hữu một ngôi nhà. Khác nhau.”

“Nếu anh sở hữu một ngôi nhà, vậy thì anh có thể có một ngôi nhà,” cô khăng khăng. “Có nhà mới khó. Làm cho nó trở thành một ngôi nhà thì dễ hơn.”

“Vậy à?” anh nói. “Tốt, khi nào chúng ta kết hôn, em sẽ được hưởng niềm vui tạo dựng một ngôi nhà cho chúng ta.”

Cô nhích người ra. “Họ nói chúng ta sẽ tới Malta vào ngày mai.” Đó là một lời cảnh báo. “Tôi sẽ xuống trước,” cô nói nhanh và tiến về phía cầu thang.

***

Malta là một hòn đảo đẹp, nhỏ xinh như một viên ngọc trong vùng biển xanh rực rỡ, và cũng giống như một viên ngọc, nó “nội nhu ngoại cương”, với những công sự sừng sững mọc lên từ biển.

Tất nhiên, vì bị cách ly, họ không được phép lên bờ, nhưng để đổi lại vàng và vài con rùa to đẹp do các thủy thủ bắt được, các thực phẩm tươi sống được lên tàu, gồm vài giỏ đầy trái cây tươi ngon.

Ayisha và Rafe tản bộ trên boong trong khi bên dưới, các hành khách của tàu được thết đãi súp rùa, các món thịt rừng nướng, và rau quả tươi, với các loại phô mai địa phương kèm theo. Mấy mùi này trôi dạt lên trên từ khu bếp quả thật rất cám dỗ con người, và Rafe thấy đói bụng, nhưng họ phải kiên nhẫn. Họ nhận khẩu phần của mình sau những người khác, nhưng Higgins sẽ đảm bảo họ không chỉ nhận được những phần thức ăn thừa.

Họ có thể nghe thấy tiếng nhạc đang chơi trên bờ. Kiểu nhạc của lễ hội hoặc tiệc tùng. Ayisha cúi người qua mép tàu, say sưa lắng nghe, một chân nâng lên.

“Coi chừng không cẩn thận sẽ rơi xuống biển đấy,” Rafe bảo cô. Tất cả ở cô đều trông rất thanh nhã và đẹp dịu dàng.

Cô bật cười. “Nhạc nghe tuyệt nhỉ?” Cô nhắm mắt lại để tập trung hơn vào âm thanh trôi bập bềnh trên làn nước phẳng lặng của cảng biển. “Ô – ô! Tôi biết bài hát đó,” cô thốt lên trong phấn khích. “Đó là bài ‘ Highland Laddie’, và tôi từng chơi bản nhạc đó với đàn dương cầm đấy.” Và cùng với giai điệu ồn ào đó, cô lặng lẽ đánh các nốt nhạc trên bề mặt trơn trượt của mép tàu.

Niềm vui nho nhỏ bộc trực của cô làm anh thấy cảm động. “Vậy ra, em có thể chơi dương cầm,” anh ướm lời, hy vọng sẽ khuyến khích cô mở lòng ra một chút. Cô hiếm khi nói về quá khứ của mình.

“Không, tôi ước gì mình có thể,” cô nói, vẫn tiếp tục sốt sắng gõ nhịp những nốt nhạc vô âm, với một loại vui thú dâng tràn mà cô nghĩ là đã quên từ lâu. “Tôi có học vài bài, và tôi rất thích nó; nó là thứ tuyệt nhất…” Và cô hát một câu rồi mỉm cười. “Thật tuyệt khi nghe bài hát này sau rất nhiều năm.”

“Em trông có vẻ rất thành thạo.”

“Ừm, nhưng chỉ trên lan can tàu thôi,” cô thừa nhận. “Tôi chỉ tham dự các bài học trong một năm và sau đó…”

“Sau đó thế nào?”

“Họ ngừng dạy.” Nhịp tay cô lệch nhịp, và cô giật chúng ra sau vẻ ngượng ngập và, như thể đang tìm kiếm gì đó cho chúng làm, cô vuốt tóc ra sau.

Một khoảng lặng theo đó, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng sóng vỗ nhè nhẹ và âm thanh từ khu thị dân trôi dạt trên mặt nước.

“Chuyện gì xảy ra? Giáo viên của em nghỉ việc? Hay chết?”

“Bà Whittacker á? Không, theo như tôi được biết thì bà ấy vẫn còn sống ở đó và đang tiếp tục dạy học.” Cô nhún vai. “Bà ấy từng dạy cho nhiều người Fran – người Anh và những đứa trẻ khác sống ở đó, không phải vì tiền, mà bởi vì bà ấy yêu trẻ-” Cô dừng lại, nhíu mày. “Không, bà ấy đã nói rằng đó là bởi vì bà ấy yêu trẻ con, nhưng giờ tôi nghĩ lại, tôi thấy đó không hẳn là sự thật.”

Cô ngước nhìn anh. “Bà ấy ra vẻ rất chú ý đến tôi, và tôi cảm thấy mình rất được chào đón, rất được hoan nghênh…” Cô thở dài. “Khi anh là một đứa trẻ, anh tin mọi thứ người lớn nói với mình,” cô nói bằng mọt giọng nghe có vẻ mệt mỏi. “Rồi rất lâu sau đó anh hiểu rằng có nhiều thứ xảy ra không giống vậy…”

“Có chuyện gì xảy ra với bà Whittacker sao?”

Cô lắc đầu. “Chuyện đó giờ không còn quan trọng nữa.”

“Xin hãy thỏa mãn tính tò mò của tôi đi. Tôi muốn biết lý do tại sao những bài học mà em rất thích lại dừng lại.”

Cô nhún vai lần nữa. “Giờ thì tôi cho là bà ấy quan tâm tôi vì Papa. Có lẽ bà ấy hy vọng sẽ kết hôn với ông ấy… Tôi chẳng rõ.”

“Cha em không đáp lại tình cảm của bà ấy sao?”

“Không, tất nh-” Cô ngưng ngang. “Không, ông ấy không. “Anh có thể nghe bài này là bài gì không?” Cô nghiêng người sang bên kia, nghển tai nghe bài hát kế tiếp trôi dạt trên làn gió đêm nhè nhẹ, nhưng anh biết đó là một cái cớ để thay đổi chủ đề. Có gì đó xảy ra với những bài học kia, không chỉ vì sự thất vọng của một quả phụ. Có gì đó riêng tư hơn với Ayisha.”

“Em nghe có vẻ thất vọng.”

“Tôi không biết bài này, nhưng nó cũng hay nhỉ?” Cô đu đưa theo tiếng nhạc.

Cô rõ ràng là đã quyết tâm không nói gì về chuyện đó nữa. Nhưng tiếng nhạc và những động tác của cô làm anh nảy ra một ý tưởng.

“Là Strauss,” anh nói và đưa một bàn tay ra với cô. “Một điệu waltz nhé, tiểu thư Cleeve?”

Cô nhìn tay anh và lắc đầu. “Ý anh là khiêu vũ? Không, tôi từng nhìn thấy người ta khiêu vũ – chúng là phần khác của những bài học của bà Whittacker, nhưng tôi chưa bao giờ học phần đó.”

“Vậy thì tôi sẽ dạy em.” Anh nắm lấy tay cô trong tay anh.

Cô cố giật lại. “Không, tôi không biết đâu.” Cô nhìn quanh, xấu hổ.

Như mọi lần khác họ đã đi dạo, không có thủy thủ trên boong chính. Anh có thể nhìn thấy vài người làm việc của họ ở chỗ hệ thống ròng rọc, những cái bóng đen chống lại bầu trời đêm và nhiều người hơn đang làm nhiệm vụ của mình ở phần boong mũi tàu và đuôi tàu. Con tàu sẽ ra khơi lúc triều lên ban đêm và sớm thôi sẽ có các thủy thủ ở mọi nơi, nhưng còn bây giờ…

“Không ai nhìn thấy em đâu,” anh trấn an cô. “Nào, như này – một-hai-ba, một-hai-ba, một-hai-ba…” Cô vấp váp một chút ban đầu, nhưng Rafe là một vũ công tuyệt vời với nhiều năm kinh nghiệm – anh từng phục vụ cho ban tham mưu của Wellington và ngài Beau là người nổi tiếng đam mê các vũ hội – và cô sớm theo kịp các bước nhảy.

Cô nhẹ hẫng trên đôi chân của mình và làm theo hướng dẫn của anh gần như là theo bản năng. Anh nhìn thấy vẻ mặt của cô chậm rãi thay đổi từ cái cau mày tập trung đến biểu cảm kiểu tôi-nghĩ-tôi-có-thể-làm-được, và cuối cùng, cô ngước lên và tặng anh một nụ cười rực rỡ. “Tôi đang nhảy này,” cô kêu lên. “Tôi đang nhảy và tuyệt quá – ối!” Cô giẫm lên chân anh, và bật cười, quay trở về vẻ mê mải tập trung.

Anh không cho là mình sẽ có bao giờ chán nhìn cô. Biểu hiện cảnh giác mà cô đã khoác lên khi anh gặp cô lần đầu tiên đã gần như biến mất. Nó trở lại mỗi khi họ nói về quá khứ của cô – có gì đó bí ẩn và đáng lo ngại mà cô đang cố che giấu – nhưng những lúc còn lại thì… cô thật hấp dẫn.

Họ xoay tít quanh khắp boong tàu cho đến khi bài hát kết thúc và cả hai người đều hụt hơi.

Anh buông cô ra và khom người, hổn hển. “Tôi chắc già mất rồi,” anh đùa. “Tôi đang thở như một con cá. Hồi trước tôi có thể cưỡi ngựa suốt ngày, rồi khiêu vũ cả đêm, ngày hôm sau lại cưỡi ngựa.”

“Đó là do cơn sốt,” cô nghiêm nghị bảo anh. “Anh vừa mới khỏi ốm dậy; anh không được làm việc quá sức. Cơn sốt có thể quay trở lại đó.”

Anh nghe thấy giai điệu tiếp theo. Bài gì đó anh không nhận ra. “Vậy thì, chúng ta sẽ ngồi ngoài này nhé, tiểu thư của tôi?” Họ quay lại lan can tàu.

“Anh nói về chuyện ấy là khi nào thế?” cô hỏi. “Cưỡi ngựa cả ngày và khiêu vũ suốt đêm ấy.”

“Hồi còn quân ngũ. Bất cứ ai là nhân viên của ngài ấy – sớm muộn gì cũng phải học cách trở thành một vũ công hoàn hảo.”

“Ngài ấy? Anh muốn nói tới cha anh phải không?”

Câu hỏi làm anh bật ra một tràng cười nắc nẻ. “Chúa tôi, không phải, tôi không biết cha tôi là loại vũ công nào nữa. Tôi không thể tưởng tưởng ông ấy sẽ hạ mình để làm bất cứ gì giống con người. Ngài ấy là từ mà chúng tôi gọi Wellington khi họ bổ nhiệm ông làm một quận công. Từ đó hoặc ngài Beau. Trước mặt ông, tất nhiên, chúng tôi sẽ gọi ông là Ngài hoặc quận công.”

“Ý anh là anh khiêu vũ trong khi tham chiến? Khi anh còn là một quân nhân á?”

Anh bật cười trước vẻ mặt cô. “Em đâu thể nào chiến đấu suốt ngày, và em sẽ thấy ngạc nhiên người ta có thể đạt được kết quả ở một vũ hội nhiều hơn thế nào so với ở một cuộc họp. Một số vị ủng hộ quan trọng nhất của chúng tôi lần đầu tiên được giới thiệu với Ngài Beau là tại một vũ hội đấy. Các bà vợ của họ đã kéo họ tới – họ sẽ không bao giờ có cơ hội đến một hội nghị.”

“Tôi hiểu rồi. Tôi biết anh đã tham gia nhiều cuộc chiến đấu, nhưng tôi đã không nghĩ về những việc khác. Tôi đồ rằng một buổi khiêu vũ là nơi các nhà ngoại giao bước vào.”

“Đúng thế. Nhưng Ai Câp cũng bị vướng vào chiến tranh. Cha mẹ em hẳn cũng bị nhiều ảnh hưởng bởi sự chiếm đóng của Napoleon?”

Cô lắc đầu. “Tôi không biết. Tôi còn quá nhỏ, và Papa không bao giờ nói chuyện về nó.”

“Tôi thấy ngạc nhiên vì ông ấy ở lại đó. Với vợ và con gái…”

Cô nhún vai. “Kể cho tôi nghe về cha anh đi. Ông ấy thực sự không khiêu vũ được à?”

“Tôi hầu như không biết gì về ông. Ông đưa cho tôi một cặp cờ vào ngày tôi từ trường trở về nhà và-”

“Cờ?”

“Nó có nghĩa là ông ấy đã mua cho tôi một chỗ trong quân đội.”

“Vào ngày anh thôi học?” Cô cho anh một cái nhìn bối rối.

Anh nhún vai. “Đó là chuyện phổ biến cho các đứa con trai út để tham gia các hoạt động nhà thờ, ngoại giao đoàn, hoặc quân đội.”

“Và anh đã chọn quân đội?”

Anh ngập ngừng. Anh lúc ấy đã không được hỏi ý kiến. Mà, trên thực tế, nó đã khá gây sốc khi được bảo là phải đi ngay khi vừa về nhà.

Nhưng hóa ra, anh đã thấy hạnh phúc trong quân ngũ còn hơn là anh từng có ở Axebridge. Anh đã rất muốn trở thành một người lính. Anh thích có một mục đích rõ ràng, một vai trò quan trọng, và anh cũng giỏi bày trận, giỏi tổ chức, và có tài lãnh đạo, anh đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra điều đó. Quân đội đã trở thành nhà anh.

Và kể từ khi bốn người bạn thân nhất của anh cũng theo anh nhập ngũ, điều đó đã thắt chặt tình bạn thời học sinh của anh thành một thứ tình cảm gia đình – một thứ có thể sẽ kéo dài suốt đời.

“Phải, quân đội hợp với tôi,” anh nói với cô. “Giờ thì trừ khi tôi nhầm, lại thêm một bản waltz nữa kìa. Tôi nghĩ chúng ta có thời gian cho thêm một điệu nhảy trước khi em nên đi xuống thay quần áo.”

“Không,” cô nói, nghe có vẻ khó khăn. “Tôi nghĩ chúng ta đã nhảy đủ.”

***

Thật kỳ lạ khi nghĩ về bà Whittacker vào lúc này, ở một nơi như thế này, Ayisha suy nghĩ đêm đó. Cô nằm trằn trọc ở phần giường bên cô, chờ nghe nhịp thở đều, sâu báo với cô rằng Rafe đã ngủ. Khi ấy cô mới có thể ngủ.

Không phải là cô không tin anh; anh là một người đàn ông trọng lời hứa, và khi anh đã hứa, anh đã không có động thái nào để quyến rũ cô.

Không phải ở trên giường, chính xác là thế.

Đó là một vấn đề nhỏ của một nụ hôn. Và một điệu nhảy.

Điệu waltz là một loại chiếm hữu nhỏ, để cô bị đưa đến nơi anh muốn, bị chi phối bởi anh và âm nhạc. Một sự mường tượng trước…

Cô nhắm mắt, hồi tưởng lại điệu nhảy. Khi cô đã nắm được các bước nhảy, cô đã tự để mình bước, và ồ, cảm giác xoay tròn trong vòng tay anh, quay tít trong niềm vui chóng mặt, trao bản thân cho nhạc điệu, cho vòng tay ôm khỏe khoắn của anh, cho cơ thể mạnh mẽ của anh…

Nó làm cô tự hỏi về sự chiếm hữu tột tột bậc giữa người nam và người nữ…

Không phải là cô không tin tưởng anh. Cô đã hoàn toàn bị thu hút vào người đàn ông này.

Ký ức về bà Whittacker đã đến thật đúng lúc.

Ayisha cần được nhắc nhở. Cô đã bị quyến rũ không chỉ vì một nụ hôn và một điệu nhảy. Mà là toàn bộ viễn cảnh cô và Rafe kết hôn. Bên cạnh anh trong quãng đời còn lại của cô. Cùng ngủ trong một chiếc giường, có thể chạm vào anh khi cô muốn và được anh chạm vào… Hôn anh bất cứ khi nào cô muốn, lâu và sâu như cô đã mơ thấy… Để có thể mở cửa trái tim cô cho anh và anh cũng mở cửa trái tim anh cho cô, cùng chia sẻ những hy vọng, ước mơ, và phiền muộn. Và có thể, nếu họ được chúc phúc, sẽ có những đứa con với anh. Gầy dựng một ngôi nhà cùng nhau, và một gia đình cùng nhau. Một gia đình của riêng cô.

Điều đó thật sự cám dỗ.

Nhớ tới bà Whittacker giống như là bị tạt một xô nước lạnh vào mặt.

Lời hứa của anh, lời đề nghị của anh về hôn nhân, là dành cho Alicia Cleeve.

Bà Whittacker đã dạy Ayisha bài học cuộc đời khi cô chín tuổi. Và nó không phải là về âm nhạc.

Cô đã học với bà Whittacker trong một năm. Papa sẽ đưa cô tới đó mỗi tuần và đón cô về sau đó. Ayisha rất thích các bài học của mình và cũng thích những lần đi cùng với ông. Đấy gần như là thời gian duy nhất cô từng có với Papa cho riêng mình.

Bà Whittacker luôn mời cô và Papa trà sau đó. Cô luôn có đồ ăn ngon: những chiếc bánh nhỏ ướp đá, bánh bơ hạnh nhân, bánh hạnh nhân, và trà Anh chính tông.

Bà Whittacker gọi cô là Alice, Alice thân yêu, hoặc Alice yêu quý – không bao giờ là Ayisha. Papa nói cô đừng để tâm và hãy đáp trả cho dù bà Whittacker gọi cô là gì.

Mỗi tháng, bà Whittacker tổ chức một buổi mà bà gọi là chương trình hòa nhạc, chỉ trong buổi chiều. Ayisha chưa bao giờ dự buổi nào, nhưng cô biết tất cả về nó. Những học sinh giỏi nhất của bà ấy và cha mẹ họ được mời tham gia, và những học sinh đó sẽ biểu diễn một tiết mục nhỏ. Phần thú vị nhất của buổi nhạc hội này là tiết mục song tấu.

Mỗi tháng hai học sinh đặc biệt được chọn được cho một bài song ca để tập. Chỉ ở buổi hòa nhạc họ mới biết được tiết mục cuối cùng nghe như thế nào, khi họ ngồi xuống bên chiếc đàn cùng với người học sinh kia và mỗi người đàn phần của mình.

Ayisha vẫn còn nhớ mình đã cảm thấy phấn khích thế nào khi cuối cùng cô cũng được mời tham gia chương trình hòa nhạc và được trao cho một phần để tập. Cô đã tập luyện thế nào, sẽ biết được ở cuối tháng cô sẽ biểu diễn – buổi hòa nhạc đầu tiên của cô, và trong một tiết mục song tấu được thèm muốn.

Và rồi đòn giáng đầu tiên xuất hiện, Papa và Mama sẽ đi Jerusalem, vì thế Papa không thể tham dự buổi hòa nhạc. Mama không bao giờ đi đến những nơi như thế – bà xấu hổ với sự có mặt của nhiều người, bởi vì vết sẹo ở gò má bà. Ayisha đã luôn chấp nhận việc ấy – cho đến bây giờ.

“Sẽ còn những buổi hòa nhạc khác mà, con gái,” Papa đã nói thế. Ông và Mama rất phấn khích về chuyến đi của họ.

Đòn giáng thứ hai đến khi Papa nói cô sẽ không đi học trong khi ông đi xa.

Giờ nhớ lại, Ayisa thấy rằng Papa đã biết ông đang làm gì. Vào thời điểm đó, cô đã nghĩ cuộc đời mình thế là hỏng, rằng cô sẽ không bao giờ được mời lần nữa ở chương trình hòa nhạc của bà Whittacker, huống hồ là biểu diễn song tấu…

Cô đã đúng, nhưng không phải vì những lý do mà cô bé chín tuổi là cô đã tưởng tượng.

Cha mẹ cô đã đi Jerusalem, nhưng khi thời gian cho bài học hàng tuần của cô đến, Ayisha đã thuyết phục một trong những người hầu đưa cô đi. Không phải Ratibe, người thường chăm sóc cô, cũng không phải Yiorgi, người được giao nhiệm vụ trông coi ngôi nhà – hoặc những người có thể biết mệnh lệnh của cha cô – trừ Minna, người hầu nhỏ tuổi nhất,cô nàng này ngờ nghệch, nhẹ dạ và ham vui.

Ayisha chưa bao giờ không vâng lời cha cô trước đây. Bà Whittacker đã rất ngạc nhiên với sự vắng mặt của Papa, nhưng bài học vẫn tiếp tục, dù không có trà sau đó.

Tuần tiếp theo bà Whittacker đã hỏi cô về Mama, câu hỏi tiếp nối câu hỏi. Bà chưa bao giờ hỏi Ayisha trước đây về bất cứ gì. Sau đó bà đã cắt ngắn bài học, bảo rằng đau đầu. Ayisha không nghĩ ngợi gì về việc đó lúc ấy.

Ngày hòa nhạc đã đến và cô bận bộ váy đẹp nhất của mình. Cô đến cùng với một nhóm người khác.

“Ngồi đó và không được đi đâu,” bà Whittacker bảo cô, chỉ vào một chỗ ngồi trong góc.

Ayisha đã chờ đợi, phấn khích, căng thẳng… Cô nhìn những học sinh khác và ba mẹ họ đến và mỉm cười với họ, tự hỏi không biết người cùng biểu diễn với cô là ai. Cô không biết nhiều về những đứa trẻ khác. Cô nhìn họ từ ghế ngồi của mình, xem xem liệu có bất kỳ ai trong số chúng sẽ trở thành một người bạn của cô không. Cô rất muốn có một người bạn cùng tuổi với mình.

Buổi hòa nhạc bắt đầu. Ayisha lắng nghe, theo dõi và chờ đợi.

Giải lao. Mọi người uống trà hoặc nước chanh và ăn bánh. Ayisha đứng lên để lấy nước uống – vì căng thẳng làm bạn khát nước rất nhiều – nhưng bà Whittacker rít lên với cô, “Tôi đã bảo em ngồi xuống mà,” và cô ngồi xuống.

Không ai đến nói chuyện với cô. Không ai nói một lời nào với cô. Nhưng có những tiếng thì thầm, và mọi người len lén nhìn cô khi họ nói. Cô đã làm sai gì ư?

Phần thứ hai của buổi hòa nhạc sắp kết thúc; chỉ còn một tiết mục: song tấu. Một cô gái với những lọn tóc vàng xoăn dài đứng dậy, vuốt nhẹ chiếc đầm hồng của mình một cách căng thẳng. Ayisha đứng lên.

“Cô rất tiếc, bé à, Susan, bạn cùng diễn với em không có ở đây,” bà Whittacker nói. “Buổi hòa nhạc đã kết thúc.”

“Nhưng-” Ayisha bắt đầu.

“Ayisha, đi tới bếp chờ cô,” bà Whittacker ngắt lời. “Còn các em khác có thể chuyển sang phòng ăn, ở đó có các đồ giải khát đang được phục vụ đấy.”

Buồn tủi và hoang mang, Ayisha bước vào bếp, nơi Minna đang chờ. Những người đầy tớ khác nhìn chằm chằm cô. Không ai nói gì với cô.

Ít lâu sau đó một người đầy tớ bước vào và nói với Minna, “Bà chủ bảo cô hãy đưa cô gái này về nhà, bây giờ.”

“Tôi muốn lấy túi nhạc của mình,” Ayisha nói, cố nén khóc, và chạy trở lại phòng khách để lấy nó.

Có vài đứa trẻ trong sảnh, gồm cả con bé kia, Susan, nhìn vào mắt nó cô thấy nó đang khóc. Ayisha bước đến để an ủi nó – nó, cũng như cô, đã bị tước đi khoảnh khắc vinh quang vì nó mà cô đã luyện tập rất chăm chỉ.

“Ô! Tránh ra, đồ thứ bẩn thỉu!” Susan kêu lên. “Đừng có chạm vào tao.”

Ayisha nhớ là đã nhìn xuống bộ váy của mình, nghĩ mình chắc là đã làm bẩn nó mà không biết khi ở trong bếp. Nhưng nó vẫn cứng và sạch nguyên như khi cô mới mặc vào. Cô thử lần nữa.

“Đi đi!” Susan gào lên. “Bọn tao không được phép nói chuyện với mày. Mày cũng không được phép có mặt ở đây!”

Những giọt nước mắt chực chờ rơi ra, Ayisha đẩy cửa phòng khách mở ra và nghe tiếng ai đó nói, “Cô nói nó là ai cơ?”

Và bà Whittacker trả lời, “Nó là con ngoài giá thú của Henry Cleeve, đứa con hoang bẩn thỉu của ông ta – với một con đàn bà nô lệ, không kém hơn. Tôi chưa bao giờ bị thất vọng đến thế trong cuộc đời mình.”

Ayisha thậm chí còn không biết con hoang và con ngoài giá thú là gì, nhưng cô biết từ cái cách nói đó cho thấy bà Whittacker ghét cô. Và vì thế những người khác cũng vậy.

Đứa con hoang bẩn thỉu – nghe như một con nhặng, đẻ trứng trong đồ ăn hư và sản sinh ra những con giòi.

Ayisha thậm chí không nhớ mình đã về nhà bằng cách nào. Cô nghĩ Minna đã tìm thấy cô và đưa cô đi.

Nhiều năm sau, cô biết được tất cả những việc đó có nghĩa là gì, tất cả họ đều nghĩ cô là người chị khác mẹ của cô, Alicia, người đã chết. Papa biết điều đó nhưng đã nghĩ rằng sự hiện diện của ông sẽ ngăn chặn việc đó lộ ra.

Đó là một bài học cô sẽ không bao giờ quên: âm nhạc, hòa nhạc, tình bạn – thậm chí những cái bánh cũng có nghĩa là dành cho Alicia, không phải cho Ayisha. Không có gì là cho Ayisha.

Lời đề nghị hôn nhân từ người đàn ông đang nằm cạnh cô trên giường cũng là dành cho Alicia Cleeve, con gái của một nam tước và một quý bà.

Ồ, anh ấy muốn Ayisha, cô biết, và anh có thể thậm chí sẽ yêu cô. Papa đã yêu Mama – bà là cả thế giới của ông.

Nhưng trong thế giới của Rafe – thế giới thực sự – con trai của một quý ông sẽ không bao giờ cưới đứa con gái ngoài giá thú của một nô lệ – không cố ý làm thế. Không, trừ khi cô lừa anh.

Nhưng nếu cô ở lại với anh, nếu cô trao thân cho anh, anh sẽ biến cô thành tình nhân của anh – có lẽ là cô tình nhân được anh yêu thương. Và các con trai của cô sẽ là những đứa con hoang.

Nhưng không một đứa con nào của cô sẽ có bao giờ nghe thấy người ta nói thế này, “Nó là con ngoài giá thú của Rafe Ramsey, đứa con hoang bẩn thỉu của anh ta…”

Luôn có những lời đề nghị như của thuyền trưởng làm đám cưới tại chỗ cho họ. Mục sư Payne cũng đã đề nghị làm lễ cưới cho họ theo nghi thức của giáo hội Anh.

Nhưng cô sẽ không lừa gạt để anh cưới cô. Anh sẽ hận cô vì điều đó, cô chắc chắn, và đó sẽ là điều không thể chịu đựng nổi. Cô sẽ muốn sống mà không có anh hơn là sống với anh, nhưng bị khinh miệt như là một kẻ dối trá. Hoặc như là một trách nhiệm nặng nề mà anh phải gánh vác.

Vì thế cô sẽ phải nói với anh. Và ngay sau đó, anh sẽ thấy tức giận vì đã tự làm cho mình thành một kẻ ngốc hết lần này tới lần khác, đã trao cho cô đề nghị kết hôn, dựa trên một giả định sai lầm.

Cô xoay người trên giường và nhìn anh đang ngủ, khuôn ngực rộng nhấp nhô lên xuống.

Làm thế nào để cô chia sẻ một chiếc giường với một người đàn ông đã biết rằng cô đã lừa anh ta? Nếu anh rất tức giận thì làm thế nào đây? Cabin này rất nhỏ. Cô không sợ anh sẽ làm đau cô về mặt thể xác, nhưng sẽ chẳng dễ chịu chút nào khi phải tiếp tục chia sẻ một không gian quá thân mật với một người đàn ông khinh bỉ cô.

Hoặc một người đàn ông nhất quyết biến cô thành người tình của mình.

Cô sẽ chờ, cô quyết định, cho đến khi cô được phóng thích khỏi lệnh cách ly. Sau đó cô sẽ nói cho anh biết sự thật. Và cho đến lúc đó, cô sẽ ở cách anh một sải tay. Cũng không có thêm một điệu walz nào trên boong tàu dưới ánh trăng.

***

Buổi tối tiếp theo khi họ đang đi dạo quanh boong tàu như lệ thường thì một thủy thủ hét lên, “Chào ngài, chào tiểu thư,” rồi chạy về phía họ. “Thuyền trưởng ra lệnh, hai vị phải trở về phòng ngay và khóa cửa lại.” Phía sau anh ta, mọi người chộn rộn cả lên, các thủy thủ nháo nhào khắp nơi, kéo thêm những cánh buồm lên – và lăn ra những khẩu súng đại.

“Có chuyện gì thế?” Rafe hỏi.

Người đàn ông hất đầu ra hướng nam. “Cướp biển, thưa ngài, đang tiến nhanh tới từ phía sau chúng ta. Giờ thì xin hãy xuống dưới và chốt cửa phòng lại. Sẽ rất nguy hiểm.”

Ayisha bồng Cleo lên. Rafe nắm lấy cánh tay cô và họ vội xuống dưới.

Trong khi Ayisha đặt con mèo vào trong giỏ của nó, anh kiểm tra nhanh các khẩu súng của mình. Anh quay sang Ayisha. “Em đã sử dụng súng bao giờ chưa?”

“Chưa, nhưng tôi có thể học.” Khuôn mặt trắng bệch nhưng bề ngoài vẫn giữ vẻ bình tĩnh, cô đưa tay ra để lấy khẩu súng lục.

“Tốt. Mấy khẩu này đã được nạp đạn. Em chỉ cần kéo cò – nhớ cẩn thận – kéo nó ra hết đằng sau – như này…” Anh làm mẫu trên một khẩu và cô làm theo anh ở một khẩu khác. “Thế, đúng rồi. Và sau đó em nhắm nó vào ngực một người đàn ông và bóp cò. Và đừng do dự giết người; một người đàn ông bị thương vẫn có thể chiến đấu được. Hiểu?”

Cô gật đầu. Cô trông có vẻ rất sợ, nhưng khuôn hàm vẫn cứng rắn. Cô thật cừ khôi.

“Tốt.” Anh đặt lại khẩu súng của mình vào trong hộp, kéo mở mạnh hòm đồ, và rút ra thanh kiếm bằng thép Damascus. “Nào, hãy khóa cửa lại. Tôi sẽ lên trên chiến đấu với bọn cướp biển.”

Cô bắt lấy cánh tay anh. “Nhưng anh quá yếu chiến đấu với một thanh kiếm – anh chỉ mới vừa hết sốt. Hãy lấy mấy khẩu súng.”

“Không, em cứ giữ chúng. Tôi sẽ ổn thôi – tôi là một người lính, nhớ không?”

“Vậy thì, chờ tôi, tôi cũng sẽ đi!”

“Không.” Anh choàng một cánh tay quanh cô và trao cho cô một nụ hôn mạnh mẽ, đầy chiếm hữu. “Rất nguy hiểm. Hãy ở lại cabin.” Anh bước đi, đóng sầm cửa đằng sau mình. “Khóa cửa lại,” anh hét lên và chạy về phía cầu thang.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.