To Catch A Bride

Chương 18: Chương 18




Đó hoàn toàn không phải là một nụ hôn tôi-vui-vì-em-đã-có-một-quyết định-sáng suốt. Mà là một nụ hôn chiếm hữu, quay cuồng, một lời tuyên bố chiến thắng. Hoặc ít nhất đó là cảm nhận của Ayisha.

Anh kéo cô sát vào anh và hào phóng tặng cô những nụ hôn, lên môi, lên mắt, lên làn da mềm mại sau tai, miệng, cổ, rồi lại tới môi, tới miệng…

“Em sẽ không thấy hối hận,” anh thì thầm giữa những nụ hôn.

Ayisha không cố gắng trả lời. Anh có thể sẽ kết hôn với cô vì hào hiệp, nhưng chuyện này – chuyện này ít nhất là có thật. Anh muốn cô. Và cô cũng muốn anh.

Biển đang nhồi sóng và con tàu tròng trành từ bên này sang bên kia. Dẫn dắt cô đi cùng với anh, mà không cần phải gián đoạn cái ôm của họ, anh chuyển dần cho đến khi lưng anh dựa vào bức tường cabin.

“Tốt hơn?” anh nói, và không chờ cô trả lời, anh lại hôn sâu thêm. Hương vị của anh trong miệng cô làm cô thấy phấn khích. Giờ thì cô biết mình mong đợi gì, và cô muốn nó, muốn anh.

Cơ thể anh áp vào toàn bộ chiều dài cơ thể cô, khuôn ngực anh dán sát vào ngực cô, bộ phận nam tính của anh đẩy vào bụng cô, một bên đùi dài, săn cứng của một kỵ sĩ ép vào giữa hai đùi đang run rẩy của cô.

Cô rà hai lòng bàn tay lên những chỗ phẳng ấm áp của cơ thể anh, cuống cuồng hôn anh, chìm trong những cơn sóng nhung rực lửa đang dâng trào qua cô. Lưỡi anh vuốt ve lưỡi cô, gửi lại những lằn lửa ở bất cứ đâu nó chạm vào: trêu chọc, kích động, truyền lửa.

Anh lướt một bàn tay chậm rãi xuống lưng cô, ghìm phần dưới cơ thể cô giữa hai đùi và chuẩn bị tinh thần chống lại sự chuyển động của con tàu. Cơ thể cô đau nhức vì sự khuấy động mạnh mẽ của anh, thích thú với sự ma sát, bị nó khuấy động, bị thôi thúc bởi nhu cầu cho một sự thân mật sâu sắc hơn. Nhức nhối, mãnh liệt, thất vọng.

Ngực anh lên xuống như thể anh đang chạy, đôi mắt anh, mí dày nặng và trông như buồn ngủ, ánh lên màu xanh bạc, hai đồng tử sẫm tối, giãn ra, và giàu lời hứa hẹn. Chăn giường nhàu nhĩ và những đêm dài, nóng bỏng…

Anh dừng lại với một hơi thở hắt ra và nhẹ nhàng đặt cô sang một bên. Tại sao? Hai chân cô run run như thể xương cốt đã rã ra và cô loạng choạng người.

Anh giữ cô đứng vững, một tay đặt trên eo cô. Và sau đó cô nghe thấy, tiếng gõ cửa, và một giọng gọi vào, “Là Higgins, cậu chủ.”

Anh sửa sang cà vạt và ra mở cửa. “Chuyện gì?” Giọng anh hơi rời rạc.

“Thuyền trưởng có lời khen ngợi, thưa cậu. Một chai vang cho cậu và một món quà nhỏ cho tiểu thư Ayisha. Cùng với một lời nhắn kèm theo.” Higgins đưa ra một cái khay với một chai vang, một cái hộp nhỏ, và một tờ giấy gấp lại.

Rafe cầm lấy và Higgins rời đi.

“Vang từ Ý, tuyệt vời,” Rafe bình luận, nhìn vào cái chai. Anh chuyền mẫu giấy và chiếc hộp cho Ayisha. “Đọc xem, nó dành cho hai chúng ta.”

Cô xé niêm phong mẫu giấy và đọc nó. “Đó là quà cám ơn vì chúng ta đã giúp sức chống lại bọn cướp biển hôm qua. Thú vị nhỉ?”

“Cái gì trong hộp thế?”

Cô mở nó ra và thở hổn hển với niềm vui. “Ồ, kẹo gôm.” Cô bốc một miếng cho vào miệng ngay lúc đó và, cảm thấy vị ngọt nổ tung trong miệng, kêu lên một tiếng thích thú. “Ngon quá. Em thích kẹo gôm – anh có muốn ăn không?”

Anh lắc đầu với một nụ cười khẽ. “Không, cảm ơn.”

“Nhưng anh ăn thử một miếng đi, vị ngọt của nó rất tuyệt.”

“Thôi được, nếu em muốn,” anh lẩm bẩm, nhưng thay vì với tới cái hộp, anh cúi xuống và hôn cô một cách kỹ lưỡng.

“Đúng là rất ngon,” anh nói khi ngẩng đầu lên, và cô cảm thấy mình đang đỏ mặt. Anh đỡ cô đứng lên và kéo cô sát vào mình, nhưng một lần nữa họ bị gián đoạn bởi một tiếng gõ cửa.

“Vẫn là tôi, cậu chủ,” Higgins nói vọng qua cánh cửa.

Rafe kéo mạnh cửa ra. “Quên gì sao?”

“Không, thưa cậu,” Higgins nói với vẻ áy náy. “Các phu nhân gởi cái này cho cô Ayisha. Với những lời cảm ơn và ngưỡng mộ cho lòng dũng cảm của cô ấy.” Ông đưa ra một chiếc hộp thiếc nhỏ và bốn cuốn sách. “Và một trong số các thủy thủ, một chàng trai có tên là Jammo, đưa cho tôi cái này cho con mèo của tiểu thư Ayisha.” Đó là một mẫu dây, với một đầu dây được thắt gút phức tạp.

“Cái gì-” Rafe bắt đầu.

“Nó được gọi là nút nắm tay khỉ,” Ayisha nói với anh. “Một số thủy thủ đã cho em xem những kiểu thắt nút khác nhau mà họ đã thắt – có vài kiểu rất đẹp. Còn cái này trông khéo thật anh nhỉ, y hệt một con chuột nhỏ béo nần. Này, Cleo!” Cô khom người và lúc lắc sợi dây cho đến khi con mèo giần giật người phấn khích. Cô ném nó cách vài bước chân, con mèo nhảy lên theo sau, vồ xuống, và một trận chiến bất phân thắng bại diễn ra.

Ayisha bật cười. “Nhờ ông gởi lời cám ơn đến Jammo thay tôi và Cleo nhé, Higgins?”

“Tất nhiên rồi, thưa cô.”

Cô hăm hở cầm lấy những quyển sách. “Những bí ẩn của Udolpho, cả bốn tập,” cô kêu lên, nhìn tới lui. “Nó là của bà Ferris – em có thấy một tập trong cabin của bà ấy. Bà ấy hẳn là đã thấy em nhìn nó. Thật ngạc nhiên vì bà ấy tặng quà cho em thế này.”

Cô mở tập đầu tiên ra. “Ồ, nghe này:

‘Fate ngồi trên những lỗ châu mai tối đen, cau mày, / Và, khi những cánh cổng mở ra để đón tôi vào, / Giọng bà, ảm đạm vang qua các khoảng sân, / Gọi tên một chiến công không ai biết đến.’

Nghe ly kỳ hấp dẫn quá, em không thể chờ để đọc nó.”

Cô mở chiếc hộp. “Vài loại bánh quy. Họ chắc là đã mua chúng ở Malta. Họ thật tử tế.”

Cô ôm những món quà vào lòng và nói, “Higgins, tại sao mọi người hôm nay lại tử tế với tôi quá vậy? Tôi không hiểu.”

Higgins mỉm cười. “Họ biết cô đã giúp cứu nguy con tàu ngày hôm qua, thưa cô. Ai cũng đang nói về sự dũng cảm của cô. Cũng như của cậu Ramsey, tất nhiên,” ông thêm vào. “Mặc dù họ mong đợi một nam anh hùng chiến đấu dũng cảm hơn. Không ai mong đợi một phụ nữ đánh trận. Bà Ferris cũng là một nữ anh hùng khá dũng cảm, tôi có thể bổ sung vào, vì đã theo gương cô. Hai người phụ nữ các cô đã ngăn kha khá những kẻ hung ác muốn lên tàu. Vì thế hãy tận hưởng chúng, thưa cô; cô xứng đáng còn nhiều hơn thế.” Higgins nhìn Rafe một cái khi ông nói câu đó.

“Thôi đi ra đi, Higgins,” Rafe nhẹ nhàng nói.”Và đừng có quay trở lại nữa. Tiểu thư Ayisha cuối cùng cũng đã đồng ý kết hôn với tôi rồi, vì thế có những việc chúng tôi cần phải… thảo luận.”

Mắt Higgins sáng lên. “Chúc mừng, cậu chủ, tiểu thư.” Ông cười rạng rỡ. “Đừng lo, thưa cậu, cậu sẽ không bị quấy rầy nữa đâu.” Ông cúi người và rời đi.

Cô đưa chiếc hộp cho Rafe, nhưng anh lắc đầu. Anh không thấy đói. Hoặc cũng có, nhưng không phải vì thức ăn.

Cô ngước lên nhìn Rafe với đôi mắt hào hứng, sáng rực. “Em phải cảm ơn bà Ferris và những bà khác mới được. Và cả thuyền trưởng, vì món kẹo gôm. Và Jammo. Họ thật tử tế. Nó làm em thấy giống như là quà sinh nhật vậy. Chúng ta có bút và giấy viết không nhỉ?”

Biết là sẽ chẳng được hôn cho đến khi những bức thư được viết xong, anh âm thầm thở dài và lục hòm đồ của mình tìm giấy và viết. Niềm vui không giả tạo của cô trong những món quà đơn giản thế này làm anh thấy cảm động; cô có lẽ đã không nhận được nhiều quà trong cuộc đời mình. Hoặc những lời khen ngợi.

Anh tìm thấy hộp giấy bút của mình và đưa cho cô vài tờ. “Bút mực hay bút chì?” anh hỏi.

Cơ thể anh nhức nhối, chưa được thỏa mãn. Có lẽ vì họ bị gián đoạn. Có vẻ không đứng đắn lắm để quyến rũ cô trở lại, quá sớm sau một lễ tang, quá sớm sau lần đầu tiên của cô. Vào giờ này của buổi sáng. Khi mà cô đã bận quần áo chỉnh tề.

Ngày mai vậy. Hoặc có lẽ tối nay.

“Có lẽ sẽ dễ dàng hơn nếu dùng bút chì với con tàu rung lắc thế này,” cô cân nhắc nói.

Anh lấy ra một cây bút chì bạc, chuốt nhọn một đầu bằng con dao nhíp, và đưa nó cho cô.

“Đẹp nhỉ,” cô nói, xem xét nó. “Papa cũng có một cây giống vầy.” Cô nhìn từ cây viết này đến cây viết kia. “Nhưng nhìn hộp bút mực du lịch tinh xảo này làm em muốn dùng nó quá. Với cả, sẽ lịch sự hơn nếu trả lời bằng bút mực, đúng không?”

“Đúng.” Có gì đó rất đáng yêu trong cái cách cô băn khoăn về chuyện viết những bức thư cảm ơn đơn giản. Anh kéo cái ngòi từ ống cắm ra, làm gọn lại cái ngòi, và đưa nó cho cô.

Cô suy nghĩ một lúc, nhúng cây bút một cách cẩn thận vào lọ mực và bắt đầu viết bằng tay cầm bút vững vàng, uyển chuyển. Anh mỉm cười, nhớ lại có lần cô đã vờ là mình không biết đọc thế nào.

Anh liếc nhìn cô, đang cau mày tập trung khi cô viết lời cảm ơn của mình, tủm tỉm cười một mình và liếc nhìn qua anh với một biểu hiện rất vui vẻ và hạnh phúc khiến anh rất xúc động.

Nếu anh không ngã bệnh, anh có thể không bao giờ hiểu cô, không như anh bây giờ. Thật kỳ cục nếu nói biết ơn cơn sốt đã gần như tước đi mạng sống của anh. Nhưng nếu không có nó anh thậm chí có thể đã không nghĩ tới chuyện kết hôn.

Nhưng anh đã nghĩ, anh đã cầu hôn, và bây giờ cô – cuối cùng! – cũng đã chấp nhận, anh muốn hoàn thành nó. Mối ràng buộc giữa họ cuối cùng cũng đã được buộc một cách chắc chắn.

Anh đi đến cửa sổ và nhìn ra mặt biển sáng lấp lánh với những con sóng bạc đầu. Anh muốn chuyến đi này kết thúc, anh muốn giải quyết cho xong chuyện này, một lần và cho tất cả. Chuyện này. Hôn nhân của anh.

Anh muốn nó được giải quyết gọn gàng và êm đẹp.

Anh cũng đã nghiêm túc xem xét việc nhờ thuyền trưởng hoặc mục sư làm lễ cưới cho họ ở đây và bây giờ – vào cái ngày lệnh cách ly chấm dứt. Nhưng sẽ có tai tiếng và những lời đàm tiếu, và mọi người sẽ thì thầm đằng sau cô rằng cô đã bẫy anh vào hôn nhân.

Anh sẽ không cho phép điều đó, không cho phép bất cứ ai lấy đó làm đề tài để nói về cô như thế. Nếu có bất kỳ ai bẫy gạt ai, thì đó là anh. Anh đã giăng bẫy ngay từ lúc bắt đầu, dùng Ali làm mồi. Và vô số lần như thế kể từ đó. Anh đã sử dụng bạn bè cô, lòng trung thành của cô, thậm chí cả đe dọa; anh đã không cho cô lựa chọn trừ việc đi với anh.

Và nếu anh có thêm thời gian, anh cũng sẽ làm như vậy lần nữa. Nhìn lại, tất cả những gì anh có thể thấy là mình đã làm rất tốt. Cô ấy cần được giải cứu khỏi tình trạng kinh khủng của mình.

Liệu Lady Cleeve sẽ xử lý việc này thế nào? Ayisha sẽ thế nào? Anh ước gì mình biết bà rõ hơn, nhưng anh không hình dung được.

Người ta thường mắt nhắm mắt mở với những đứa trẻ được sinh ra trong giá thú, nhưng được thụ tạo bởi ai đó khác. Những đứa trẻ này luôn là kết quả của một mối tình quý tộc, một chàng nam tước lẻn thả một con tu hú vào cái tổ của một chàng công tước. (*) Chẳng hạn, như công tước Devonshire, một bí mật mà ai cũng biết. Nhưng về mặt pháp lý, chúng không phải là những đứa trẻ ngoài giá thú, và dù như thế nào thì dòng dõi chúng cũng đều cao quý như nhau.

(*: thành ngữ ’quạ nuôi con tu hú’ – ND)

Tuy nhiên, nếu một quý bà hạ sinh một đứa trẻ của một người giữ ngựa, thì đứa trẻ đó sẽ bị kín đáo đem đi, sống trong cảnh tối tăm, không bao giờ biết mẹ nó là ai. Còn như một vị quý tộc có con với một tình nhân thuộc tầng lớp thấp kém, thì đó là chuyện bình thường. Miễn sao gã đó là một quý ông và bảo đảm đứa trẻ được chu cấp đầy đủ, sẽ không ai nghĩ nhiều về việc đó.

Anh chỉ có thể nghĩ tới một gia đình quý tộc nơi một đứa trẻ ngoài giá thú thuộc dòng dõi thấp kém được thừa nhận, và đó là Harry Morant và anh em nhà Renfrews. Nhưng chuyện đó cũng phải mất nhiều năm. Và nếu Harry đã không được đưa ra khỏi chốn bùn lầy và được nuôi dưỡng thành một quý ông bởi bà dì lập dị của cậu ta, thì đó đã là một câu chuyện khác. Harry sẽ vẫn ở trong tăm tối bây giờ.

Mặc dù vậy, cậu ta đã không được nuôi dưỡng cùng với người anh em cùng cha với mình, Gabriel Renfrew, người vẫn đứng bên cạnh cậu ấy, yêu cầu tất cả mọi người đối xử với Harry với sự tôn trọng, Harry vẫn là một người ngoài, không được thừa nhận bởi những người họ hàng gần nhất của mình.

Dì của Harry, Lady Gosforth, hiện tại rất thích cậu ta, nhưng cũng phải mất một thời gian dài để bà chấp nhận cậu ấy.

Mẹ của Harry là một đầy tớ gái. Còn mẹ của Ayisha là một tình nhân ở nước ngoài.

Giờ thì sẽ không còn ngại chuyện xã hội đàm tiếu nữa bởi anh đã có được lời hứa kết hôn với anh của Ayisha. Kết hôn với người thừa kế của Axebridge hẳn cũng có tác dụng về mặt xã hội. Một khi họ đã kết hôn, anh có thể sửa chữa mọi thứ. Anh có thể chăm sóc cô một cách đúng đắn sau đó.

Anh quay lại và nhìn cô đang viết những bức thư cảm ơn của mình. Hôn thê của anh. Anh chưa bao giờ nghĩ hôn nhân là bất cứ gì ngoại trừ một trách nhiệm.

Nhưng còn bây giờ, nhìn cô, anh cảm thấy… như thể có một tảng đá nặng đè vào ngực anh, làm anh đau nhức, nhưng bằng cách nào đó lại thấy… tự hào.

Anh hẳn đã phát ra âm thanh gì đó bởi cô quay đầu lại và nhìn anh, sau đó mỉm cười, một nụ cười nhanh, thoáng qua nhưng vẫn khiến anh thấy hoa mắt. Sức nặng trong lồng ngực anh trở nên nặng thêm.

***

Tối hôm đó, khi họ bước lên boong cho chuyến đi dạo thường lệ của họ trong khi những hành khách khác đang dùng bữa, Ayisha ngập ngừng bước chân ở cầu thang.

“Có chuyện gì sao?” Rafe hỏi. Bình thường cô rất háo hức thoát khỏi cái cabin chật chội để hít thở khí trời trong lành.

“Không có gì,” cô nhanh nhẹn nói và tiến lên. Nhưng khi họ gần đến boong tàu thì cô lại ngập ngừng lần nữa, sau đó bước ra trong một động thái làm anh nhớ lại cách cô đã bước lên một boong tàu đang tràn ngập bọn cướp biển và đang đánh nhau, như chuẩn bị tinh thần cho gì đó mà cô sợ hãi.

“Tất cả đã sạch,” cô thốt lên kinh ngạc khi nhìn quanh boong tàu. “Không còn dấu vết gì.”

“Phải, họ đã cọ rửa và đánh bóng bằng cát,” Rafe nói với cô, nhận ra cô đã nghĩ sẽ làm chuyến đi dạo buổi tối trên một boong tàu đầy vết máu. “Thuyền trưởng Gallagher sẽ có các thủy thủ sử dụng đá bọt (*) gần như ngay lập tức. Ông ấy điều hành mọi việc rất chặt chẽ.”

“Đá thánh là gì?” (*)

“Là một khối sa thạch. Họ dùng nó như một bàn chải để cọ rửa và dùng nó đánh bóng cũng tốt như lau chùi. Các thủy thủ gọi nó là đá thánh bởi họ quỳ xuống để dùng nó, với cả nó to, vuông vức và nặng đủ để là một quyển kinh thánh,” anh giải thích. “Em có thấy phía trước chúng ta là gì không?”

(*: holystone, có nghĩa là đá bọt, nhưng nếu hiểu theo nghĩa đen thì là đá thánh – ND)

Mặt trời đang lặn và con thuyền đang hướng tới gần hai mũi biển, in bóng rõ rệt dưới ánh mặt trời vàng rực. Mũi bên phải là một mảng đá đen đồ sộ mọc lên từ biển như một kim tự tháp khổng lồ.

“Có phải nó là – là Trụ đá Gibraltar?” Cô thở ra. “Nó to hơn em tưởng tượng nhiều.”

Rafe gật đầu. “Rất kỳ vĩ, phải không? Phía bên kia là Morocco, và phía ngoài đó – ” Anh chỉ về phía trước. “Ngoài đó là Đại Tây Dương. Tôi đoán sắp tới chúng ta sẽ gặp thời tiết rất xấu. Nó đã rất kinh khủng ở chặng đi từ Anh.” Anh đã bị vật nhừ tử, trên thực tế.

Ngay sau đó, họ nghe thấy một tiếng còi rít tai phía bên trên. Họ ngước lên và thấy một trong những thủy thủ đang vẫy tay với họ. Anh ta chỉ về phía mạn trái tàu, vì thế họ đã bước qua để xem là gì.

“Những con cá heo!” Ayisha kêu lên. “Em từng thấy một con trên một bức tranh đấy.” Có khoảng một chục con, đang phi phóng bên cạnh tàu, cong người lên khỏi mặt nước rồi lặn xuống.

Cô say mê xem chúng nhảy lên rồi lặn xuống, bơi đua với con tàu, quẫy quẫy đuôi tới lui. Rafe nhìn cô cũng như cô đang nhìn đàn cá heo kia. Niềm say mê cuộc sống này của cô đã làm mê hoặc anh, và hôm nay trông nó như thể là một niềm vui bùng nổ bên trong cô. Chúng là những quà tặng, không nghi ngờ.

Cô nghiêng người qua mép tàu, mỉm cười, bật cười, rồi kêu lên khi cô nhìn thấy một luồng bong bóng nước phụt lên từ một trong những con dẫn đầu, tay cô đưa ra như thể cô có thể chạm vào một con.

“Có lần mẹ kể cho em nghe câu chuyện về một người đàn ông trẻ bị rơi xuống biển và sắp bị chìm xuống,” cô nói với anh. “Nhưng rồi những con cá heo đã đến và búng anh ta lên mặt nước với những cái mõm của chúng. Và chúng đã để anh ta bám vào chúng, rồi đưa anh ta trở lại hòn đảo nơi anh ta sống. Thật ngạc nhiên đúng không anh?”

“Ừ.”

Cô xoay khuôn mặt đang cười toe toét với anh. “Anh không tin, đúng không? Em cũng không khi Mama kể, nhưng giờ thì, nhìn những con cá heo này, nhìn thấy những khuôn mặt và đôi mắt đang cười của chúng… Em nghĩ có lẽ đó là sự thật, sau tất cả.”

“Những khuôn mặt đang cười? Chúng là cá mà,” Rafe nói.

“Không, không phải. Chúng khác,” cô nói. “Mọi người bảo chúng là những sinh vật huyền bí và bây giờ em đã thấy chúng, em tin điều đó.”

Sau vài phút, những con cá heo đột nhiên đổi hướng và biến mất. “Thật tuyệt vời,” cô nói. “Em nghĩ cũng đã đến lúc trở vào lại cabin rồi.”

Rafe kéo đồng hồ ra. “Thêm chút nữa đi. Chúng ta sẽ chờ cho đến khi chuông đồng hồ kêu như thường lệ.” Khi đồng hồ gác đêm của thủy thủ vang lên hai tiếng, dừng lại, sau đó vang thêm một tiếng nữa, họ thường trở xuống boong dưới.

Họ đứng ở mạn phải tàu, con tàu đang trôi trong ánh hoàng hôn, nhìn trụ đá Gibraltar sượt qua.

Đại Tây Dương phía trước lấp lánh ánh vàng rừng rực và nhô lên khi mặt trời nhẹ nhàng chìm xuống nó. Họ nhìn cho đến khi mặt trời hoàn toàn biến mất. Mặt biển từ từ chuyển sang màu bàng bạc, rồi thành màu đen. Trên đầu, những cánh buồm kêu phần phật, những con mòng biển chao lượn và rít lên inh ỏi, những tiếng kêu đáng sợ của chúng vang vọng trong màn đêm đang buông xuống.

Cô rùng mình.

“Lạnh?” Rafe hỏi, và không chờ cô trả lời, anh kéo cô lại gần hơn, bọc cô trong chiếc áo choàng của anh, làm ấm cơ thể cô với cơ thể anh. “Sẽ còn lạnh hơn ở Anh,” anh nói. Cả hai đều biết anh không chỉ nói về thời tiết.

***

Buổi tối giống như một buổi tiệc mừng, với tôm hùm tươi ngon, kèm theo một chiếc bánh nhân thịt thỏ, một món gà hầm ragu với nấm, trái cây tươi, một phần kem rum, và thứ thường có cho một bữa tiệc, một chai sâm banh.

“Tôi đã tùy tiện nói với thuyền trưởng về việc hứa hôn của cậu, cậu chủ,” Higgins thú nhận. “Vậy là ngài ấy đã gởi thứ này tới cùng với những lời chúc mừng của ngài ấy, mong là là tiểu thư Ayisha sẽ thích nó.”

***

Họ bị đánh thức vào sáng hôm sau bởi một tiếng gõ cửa. Rafe, hồi giữa đêm đã làm tình với Ayisha với sự chậm rãi, mãnh liệt, gầm lên, “Nếu là Higgins, tôi sẽ giết ông ấy. Tôi đã bảo ông ta là biến đi rồi mà.”

Từ phía bên kia cánh cửa vọng đến, “Là tôi, cậu chủ, Higgins.”

“Anh nói thế với ông ấy là ngày hôm qua,” Ayisha nói, cười ngặt nghẽo. Cô đẩy đẩy anh. “Thôi nào, anh biết là ông ấy sẽ không đi đâu.”

Anh cho cô một cái nhìn nham hiểm. “Miễn em không đi đâu, là được.” Anh trườn ra khỏi giường, kéo chiếc quần ống chẽn lên, cài khóa, và vung chân đi ra mở cửa. “Chuyện gì?”

“Tôi – tôi xin lỗi, thưa cậu.” Giọng Higgins có chút căng thẳng bởi Rafe mở cửa mà không mặc gì ngoài chiếc quần dài và nhiều khoảng da trần. Cánh cửa mở kia che Ayisha khỏi tầm nhìn của ông, nhưng cái sự xềnh xoàng của Rafe tiết lộ nhiều điều cho Higgins hơn là chỉ về vấn đề da dẻ.

Ayisha không quan tâm. Cô chưa bao giờ hạnh phúc thế này. Cô chưa bao giờ biết hạnh phúc là điều có thể. Nó sủi tâm qua huyết quản cô như sâm banh mà thuyền trưởng đã gửi đến cho họ, phủ chụp lên ý thức của cô như những con sóng vỗ không ngừng nghĩ vào con tàu, và lấp đầy cô với một cảm giác ấm áp; hân hoan từ bên trong.

Cô không quan tâm việc những lời yêu thương chưa được nói ra. Anh đã không nói gì, và cô thì quá mắc cỡ để nói chúng ra. Trái tim cô đầy ngập tình yêu dành cho anh, nó đe dọa sẽ sôi tràn ra ngoài và làm bỏng ca hai. Vì thế cô giữ những lời đó cho riêng mình, im lặng và trân quý trong ngực mình, cho đến khi anh sẵn sàng để nghe chúng.

Dù sao thì, những từ đó có là gì? Trong hai đêm yêu thương ấm áp, đam mê với Rafe Ramsey đã như là một món quà quý giá gắn kết hai người họ… Ít nhất thì đó là điều cô cảm thấy, và nếu anh không – không, anh hẳn là có cảm thấy. Cái cách anh nhìn cô, cách đôi mắt anh tối lại trong vẻ mặt đi-ngủ-thôi…

Việc đó không quan trọng, bây giờ, so với những gì họ phải đối mặt ở Anh quốc. Cô và Rafe sẽ sống sót với chuyện đó thôi. Cô tin bằng cả trái tim mình.

Cô ngồi dậy trên giường, với cái khăn phủ giường màu xanh kéo lên tới cằm, và ngưỡng mộ vóc dáng săn gọn, cơ bắp của người đàn ông ấy, đôi vai rộng, mạnh mẽ của chàng được phân cách bởi đường rãnh dài của chiếc cột sống, ở đốt sống cuối là hai góc hõm nông. Những chiếc xương sườn hằn lên thấy rõ. Anh vẫn chưa lấy lại được đủ da thịt từ sau trận sốt, nhưng anh là một bức tranh đẹp, săn chắc, gọn gàng và mạnh mẽ.

Chiếc quần ống chẽn ôm lấy cơ thể anh, ôm sát vào mông và xuống hai chiếc đùi dài, săn chắc.

Đôi mắt cô nhìn anh như nuốt lấy, cơ thể cô nhớ lại đã cảm thấy anh thế nào khi áp vào cô, bao quanh cô, bên trong cô, và bất ngờ một trận run rẩy dội vào sâu bên trong cô, sượt qua cơ thể cô như một sợi dây buộc đầu roi, khiến cô cong người và rồi ngã phịch xuống.

Anh hẳn đã thấy động thái đó từ góc mắt của mình, vì anh nửa quay lại, đôi mắt anh nhìn xoáy vào cô vẻ ám muội, cố ý.

Higgins nói tiếp, “Tin nhắn từ thuyền trưởng, thưa cậu. Vì lệnh cách ly đã chấm dứt vào hôm nay, ông ấy muốn cậu và tiểu thư Ayisha đến dùng bữa sáng với ông ấy sáng nay. Tám giờ, cậu chủ, là thời gian ông ấy muốn cậu ở đó. Còn khoảng nửa tiếng nữa.” Ông dừng lại và thêm vào, “Cậu sẽ muốn cạo râu, tất nhiên, vì thế tôi đã yêu cầu nước nóng cho cậu cũng như cho tiểu thư Ayisha để tắm. Nó sẽ được đưa đến đây trong một lúc nữa.”

“Chết tiệt,” Rafe lẩm bẩm, liếc nhìn Ayisha. Cô cho anh một cái nhún vai bất lực. Không còn cách nào thoát khỏi việc này mà không gây ra chuyện lùm xùm, và cả hai người đều không ao ước làm điều đó.

“Được rồi,” anh nói với Higgins. “Hãy cám ơn thuyền trưởng và đưa nước nóng của ông vào đây. Chúng tôi sẽ có mặt ở đó lúc tám giờ.”

***

“Xin chúc mừng cả hai vị đã qua khỏi thử thách của mình; tôi biết điều đó hẳn đã rất khó khăn,” thuyền trưởng Gallagher nói. Đây là một bữa ăn sáng riêng tư, được phục vụ trong khu vực riêng của ông. “Tôi phải nói là trông cô rất tuyệt sau việc đó. Tiểu thư Cleeve, cô trông thật sự rạng rỡ.”

Cô mỉm cười. “Thời gian qua nhanh một cách đáng ngạc nhiên.”

“Chủ yếu là bởi vì cô ấy là tay chơi bài cừ khôi,” Rafe cắt lời. “Thuyền trưởng, ông nên biết trước khi ông thành một người bị nợ nần chồng chất.”

Cô bật cười. “Đừng có tin một từ nào hết, thuyền trưởng, bịa đặt đấy. Tôi đã trở nên khá thành thạo ở một số trò chơi bài, nhưng đó là để tự vệ thôi, với cái cách Anh Ramsey đã chơi. Tuy nhiên” – cô cho Rafe một cái nhìn vui vẻ – “tôi hẳn phải rất biết ơn anh ấy. Nếu có bao giờ tôi cần phải tự mình kiếm sống, tôi luôn có thể kiếm tiền bằng cách chơi bài.”

Tất cả đều cười vang

Cô nói thêm, “Tuy vậy, sẽ rất tuyệt nếu tôi có thể đi bất cứ đâu tôi muốn và trò chuyện với nhiều người khác.”

“Ừm, đi dạo trên boong đã làm cho việc đó dễ chịu hơn nhiều,” Rafe nói. “Cám ơn ông vì đã cho phép điều đó.”

Thuyền trưởng lắc đầu. “Miễn là hai vị không tiếp xúc với những người khác, tôi không thấy điều đó có hại gì. Mệnh lệnh của tôi là để ngăn ngừa sự lây nhiễm nếu có, nhưng bệnh trạng thế nào thì đã được tôi phán đoán ra. Mặc dù giới chức chuyên môn còn bất đồng việc cái thứ của nợ đó lây lan thế nào, nhưng cả những người ủng hộ quan điểm lây lan và không lây lan dường như đều đồng ý rằng không khí sạch sẽ, trong lành là có lợi cho sức khỏe – hoặc ít nhất là không thể gây tác hại gì cho ai.”

Ayisha không nói gì. Đã được ông ấy phán đoán ra á? Cô chú tâm vào bữa sáng của mình. Cô không để tâm việc bị nhốt trong cabin trong mười ngày, nhưng cô sẽ không bao giờ quên việc thuyền trưởng đã định đưa Rafe lên bờ, không thèm biết hoặc quan tâm anh sẽ ra sao.

Thuyền trưởng tiếp tục, “Và tôi lấy làm vui mừng vì các vị đã đồng ý với sắp xếp đó – mặc dù anh đã không có nhiều lựa chọn, nhưng-”

“Hai chúng tôi đều hài lòng với cái sự sắp xếp ấy,” Rafe ngắt lời, và để chuyển đề tài, anh nhấc bàn tay Ayisha lên và hôn nó.

Một niềm vui chảy gợn qua người cô. Khuôn mặt cô nhuốm hồng và cô không thể không mỉm cười với anh.

Vị thuyền trưởng nhìn từ người này sang người nọ và một nụ cười toe toét nở ra trên khuôn mặt ông. “Đúng thế rồi, phải không? Tuyệt vời, thật tuyệt vời. Hai vị muốn tôi cử hành hôn lễ, hay là mục sư Payne đây?”

Rafe lắc đầu. “Cám ơn ông, nhưng không cần. Tiểu thư Cleeve muốn được kết hôn với sự hiện diện của bà nội cô ấy, và tôi phải tôn trọng mong muốn của cô ấy. Chúng tôi sẽ kết hôn ở đó, hoặc ở nhà thờ gần nhà của anh trai tôi.”

“Tuyệt,” thuyền trưởng gật đầu. “Cô hầu của bà Ferris sẽ lo liệu đồ đạc của cô, cô Cleeve.”

“Đồ đạc của tôi?” cô hỏi, bối rối.

“Vì cô không kết hôn, cho nên cô sẽ, tất nhiên, trở lại dùng chung cabin với bà Ferris.”

“Không cần thiết phải-” Rafe bắt đầu.

Thuyền trưởng chỉ đơn giản là nhìn anh. “Anh Ramsey, trong số các hành khách của chúng ta có ba vị khá to mồm và là những nữ tín đồ Kitô giáo, còn có mục sư và vợ mục sư. Họ có thể chấp nhận – một cách miễn cưỡng – sự cần thiệt để hai vị chia sẻ một cabin trong lúc anh bị ốm và phải cách ly – những hành động của tiểu thư Cleeve không cho phép chúng tôi lựa chọn. Nhưng bây giờ thời gian cách ly đã hết. Anh hoặc là kết hôn hôm nay, hoặc tiểu thư Cleeve sẽ phải trở lại cabin của bà Ferris.”

“Tiểu thư Cleeve sẽ không kết hôn vội vã trên một con tàu, nhằm xoa dịu những sự nhạy cảm của một nhóm người mặt dày thích lo chuyện bao đồng,” Rafe cáu bẳn. “Cô ấy sẽ được kết hôn một cách đúng đắn trong một nhà thờ, như cô ấy mong muốn, với sự chứng giám của bà nội.”

Ayisha đẩy sang bên bữa sáng còn lại của mình. Nó rất ngon, nhưng cô không còn thấy đói. Cô đứng dậy. “Xin các vị thứ lỗi, thưa các quý ngài, tôi sẽ đi thu dọn hành lý của mình.”

Nếu cô không không biết từ Rafe rằng kết hôn trên tàu sẽ bị xã hội dị nghị, cô chắc sẽ không quan tâm việc được thuyền trưởng làm lễ cưới trên tàu. Nhưng một đám cưới ở nhà thờ với sự hiện diện của bà nội thực sự là một viễn cảnh dễ chịu, vì thế có chia cách nhau một thời gian ngắn thì cũng không phải là việc gì quá sức chịu đựng.

Cô sẽ nhớ những buổi tối thú vị cùng nhau đi dạo trên một boong tàu vắng người, cùng nhau xem mặt trời lặn, và những buổi chiều cùng chơi bài và trò chuyện với nhau hoặc đọc sách trong bầu không khí tĩnh lặng, thân mật. Nhưng nhiều nhất là cô sẽ nhớ những đêm dài cùng chàng tận hưởng niềm vui chậm rãi, yêu thương ân ái.

Nhưng họ sẽ sớm tới nước Anh. Và sau đó họ sẽ kết hôn, và họ sẽ trải qua quãng đời còn lại bên nhau. Tất cả sẽ ổn một khi họ đã tới Anh.

***

Tàu họ tới Portsmouth với tiếng còi tàu vang rềnh, được hướng dẫn bởi một hoa tiêu, người này đã trèo lên tàu từ một chiếc xuồng nhỏ khi sương mù cuộn quanh họ. Rồi không lâu sau Ayisha có thể thấy hình dạng xương xẩu của những chiếc tàu khác đang chậm rãi thả neo, một cụm lớn những cột buồm đang đung đưa nhẹ nhàng, ma quái trong làn sương mù cuồn cuộn, dày mịn.

Họ được hồi còi của thuyền trưởng tiễn lên bờ – một vinh dự thực sự – với thủy thủ đoàn dàn thành hàng chào tạm biệt họ.

“Tôi rất tiếc vì thời tiết không tốt lắm cho ngày đầu tiên em tới nước Anh,” Rafe nói, nắm lấy tay cô để giúp cô bước vào chiếc xuồng nhỏ.

“Nhưng sương mù đẹp lắm,” Ayisha bảo anh, nhìn xung quanh với vẻ ngạc nhiên trong mắt. “Em chưa bao giờ cảm thấy bất cứ điều gì giống thế này. Cảm giác nó man mát trên da thật tuyệt.” Cô ngẩn mặt lên để cảm nhận sự ve vuốt của lớp không khí ẩm và hít sâu vào.

“Đừng bảo tôi là mùi nó thật ngon nhé,” anh khô khan nói. Cô bật cười. Cảng nồng nặc mùi cá đang thối rữa, mùi rong biển, và mùi bùn hăng hăng. “Thật kỳ lạ là ở đây ngửi thấy nhiều mùi cá và mùi biển hơn là ở trên biển. Nhưng quả thực rất thú vị.”

Hai thủy thủ chèo thuyền đưa họ vào bờ. Những con chim biển kêu rít từ những chỗ nào đó và những âm thanh nghèn nghẹt dập dềnh trên mặt nước. “Những âm thanh vang vọng bí ẩn trong sương mù,” cô bình luận khi họ đã được đưa vào bờ. “Nghe như một thế giới khác.”

“Cũng là sự bất tiện đáng nguyền rủa. Cẩn thận,” anh nói, giúp cô lên bờ. “Mấy bậc thang này ướt và trơn lắm.”

Anh đưa họ vào thành phố với một tốc độ đi như chạy. Ayisha đã gần như phải chạy mới theo kịp anh. Cô đã không được cho thời gian để khám phá Portsmouth, chỉ đủ thời gian để cô quen chân trên đất liền trước khi họ trực chỉ hướng về thành phố trong một chiếc xe ngựa mà anh gọi nó là một gã vàng chóe khó chịu (*).

(*: yellow bounder)

Trong vài phút, anh đã sắp xếp được mọi thứ; thuê một cỗ xe và người xà ích, phái Higgins đến chỗ Harry để lấy lại cỗ xe hai bánh của anh và gặp họ ở Cleeveden, và đi rút tiền Anh quốc từ ngân hàng.

Điều duy nhất làm anh chậm lại một lúc là nhìn thấy Ayisha đang run rẩy trong chiếc váy cotton và khăn choàng của mình. Anh đẩy nhanh cô vào một cửa hàng và năm phút sau đẩy cô ra, lúc bấy giờ đang mặc một chiếc áo choàng lông mềm mại màu hồng đậm, viền lụa xanh, điểm trang với lông tơ thiên nga trắng quanh mũ trùm, và một đôi găng tay bằng lông thiên nga rất phù hợp. Ayisha rất thích nó.

“Bà nội em không nghi ngờ sẽ rất thích mua cho em những bộ quần áo phù hợp với khí hậu,” anh nói khi giúp cô vào trong xe ngựa.

Ayisha gật đầu. Cô rất mong chờ điều đó. Có quá nhiều đồ đẹp trong cái cửa hàng nhỏ kia.

“Anh vội vì có việc gì sao?” cô hỏi khi họ chạy nước kiệu ra khỏi Portmouth. Cô không thấy lý do gì để vội; con tàu đã mất hơn bốn tuần di chuyển từ Alexandria, có khả năng không có ai đang chờ đợi họ cả.

“Tôi muốn đến Winchester tối nay. Nếu tình trạng sương mù này kéo dài vào sâu trong đất liền, nó sẽ làm chúng ta chậm đáng kể.”

“Có việc gì ở Winchester sao?”

Anh cho cô một cái nhìn chậm rãi-nóng bỏng. “Có một nhà trọ rất tốt.”

Một nhà trọ rất tốt. Cô cảm thấy hai má mình nóng lên và không thể không mỉm cười. Anh nhớ cô. Niềm vui dâng trào trong cô. Cô cũng nhớ anh, nhớ được ngủ bên cạnh anh, ôm anh, hít thở mùi hương làn da anh, cảm thấy sự ấm áp, sức mạnh thả lỏng ở cơ thể to lớn của anh. Cô nhớ khi mình tỉnh giấc thì được chào đón bằng sự tĩnh lặng, sâu lắng của ‘Chào buổi sáng, em yêu’ và nụ hôn bất biến kèm theo. Và cuộc mây mưa tiếp theo.

Cô giờ đã hiểu tại sao chị Laila đã nhớ tới cuộc hôn nhân tồi tệ ấy. Trong những tuần sau này trên tàu, Ayisha đã trăn trở suốt đêm trên chiếc giường hẹp trong cabin của bà Ferris, giằng xé với bản thân; cơ thể xung đột với tâm trí. Cơ thể cô đau nhức vì anh. Chỉ cần một ý nghĩ hay một ý niệm lờ mờ về anh cũng đủ để làm cơ thể cô râm ran và vặn thắt bên trong. Cô thao thức hàng giờ liền, nghĩ sao mình không cứ thế mà trượt xuống giường mình rồi chạy một chút là tới cabin Rafe…

Bây giờ, chỉ với một cụm từ ngắn gọn, với một cái nhìn nóng bỏng, anh đã chuyển tải được cảm nhận tương tự. Anh nhớ cô.

Chiếc xe va vào một ổ gà và Ayisah nảy lên, gần như là trượt ra khỏi ghế. Anh giữ cô lại, kéo cô sát vào anh.

“Đó là lý do tại sao họ gọi mấy chiếc này là ‘yellow bounders’, anh nói. “Tôi thích một chiếc to hơn, nhưng không còn chiếc nào để thuê cả.”

“Em không ngại chuyện xóc nảy,” cô nói. “Với cả em đặc biệt thích khung cửa sổ này.” Cô chỉ vào khung cửa kính rộng vắt ngang qua toàn bộ mặt trước của chiếc xe. “Nó cho phép em nhìn thấy nơi chúng ta đang đi qua và những cảnh vật thật đẹp.”

“Có gì đẹp đâu?” anh hỏi. “Chẳng có gì ngoại trừ mấy cánh đồng.”

Cô bật cười. “Cánh đồng Anh Quốc,” cô nhắc anh. “Vô cùng trật tự trong màu xanh lá, nâu và vàng – tất cả trong những ô ruộng nhỏ, với những hàng rào thật dễ thương, và xanh tươi hơn những gì em đã tưởng tượng rất nhiều – em không thể chờ để xem mùa xuân với tất cả những loài hoa. Những ngôi làng thật trật tự, xinh xắn và rất khác biệt – anh nhìn ngôi nhà kia kìa, bộ tóc đen của nó thật trang nhã.”

Môi anh xoắn lại. “Là mái rạ.”

“Nó trông như một bộ tóc giả ấy. Rất đặc trưng Anh quốc, anh thấy không, rất hấp dẫn với em.”

“Anh thấy mình bị hấp dẫn với những gì bên trong chiếc xe này hơn,” anh nói và lướt môi mình qua môi cô. Nhưng sau đó họ chầm chậm đi qua một ngôi làng và một số người hiếu kỳ chăm chú nhìn vào họ. “Chẳng có riêng tư gì ở đây cả,” anh càu nhàu, thẳng người lại, nhưng vẫn khư khư ôm chặt cô. Sự chăm sóc của anh làm cô thấy ấm áp cũng nhiều như cảm giác cơ thể tuyệt vời của anh. Cô nép sát vào hơn.

Họ ngồi như thế trong hầu hết chuyến hành trình, Rafe nằm ườn ra, thư giãn, đôi chân dài bắt chéo phía trước, giải thích vô vàn những điều làm cô chú ý, và len lén hôn cô khi anh có thể.

Ayisha rúc vào sát người anh, được bao bọc bởi cánh tay anh, ngạc nhiên với sự xanh tươi và ẩm ướt của Anh quốc và thầm cảm thấy vui sướng vì may mắn đã mang lại cho cô người đàn ông thật đáng yêu và đã làm cho anh muốn cô. Cô nhìn vùng nông thôn tươi tốt của Anh quốc lướt qua mình và đếm từng giờ để đến Winchester với một nhà trọ tiện nghi.

Nhưng hai mươi dặm trước khi tới Winchester, chiếc xe bị gẫy một trục và họ đã buộc phải trọ lại trong một nhà trọ nhỏ, ven đường, nơi không có phòng riêng tư: chỉ có hai phòng gồm vài chiếc giường, một cho đàn ông, một cho đàn bà.

***

Trục xe thay xong lúc đã quá nửa đêm, cho phép họ bắt đầu khởi hành vào sáng hôm sau. Đó là một ngày trời lạnh và họ đã đi trong sự thinh lặng dễ chịu. Rafe nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ với một vẻ đăm đăm; trầm mặc, không nghi ngờ vì kế hoạch cho đêm trước đã bị phá sản. Ayisha nhìn quang cảnh lướt qua với Cleo nằm trong lòng, lơ đãng vuốt ve sinh vật bé nhỏ đó. Trong khi vừa tiếc nuối cái cơ hội đã mất cho việc thể hiện tình yêu, cô vừa cảm thấy càng lúc càng căng thẳng cho chuyến gặp gỡ bà nội lần đầu tiên này.

Cô sẽ không cho bà nội của mình biết sự thật cho đến ngày mai, cô nghĩ. Tự cho phép mình một ngày chỉ đơn giản là một cháu gái, mà không có những phức tạp đi kèm.

Rafe tin là hoàn cảnh xuất thân của cô sẽ tạo một chút khác biệt với bà nội cô; anh đã nói điều đó nhiều lần. Anh cũng đã đảm bảo là bà cô sẽ yêu cô. Cô hy vọng anh đúng.

Anh ấy quá mạnh mẽ và tự tin nên anh không thể hiểu việc bà nội thích cô là chuyện rất quan trọng với cô, Ayisha cần được thuộc về nhiều thế nào. Đất nước này rất đẹp, và cô đã lớn lên cùng với việc nghe những câu chuyện và mơ mộng về Anh quốc, nhưng nó cũng rất xa lạ với một cô gái đã trưởng thành trong một nơi nóng bức, bụi bặm, nắng nóng chói chang.

Họ đến thị trấn nhỏ Andover vào giữa trưa, nơi họ dừng chân một lúc để đổi ngựa và nghỉ ngơi một chút.

Ngay sau đó họ rời Andover, Ayisha nhìn thấy một biển chỉ đường vụt qua. “Foxcotte!” cô kêu lên.

“Sao?”

“Em vừa mới nhìn thấy một tấm biển đề Foxcotte. Không phải đó là nơi anh từng sống sao?”

“Nhà của bà ngoại anh, đúng vậy. Làng Foxcotte gần đây,” anh nói trong một giọng buồn chán. “Anh đã không ở đó kể từ khi còn là một cậu bé.”

“Nhưng em nghĩ anh đã nói là – anh đã sở hữu nó?”

“Phải.”

“Vậy sao anh không trở lại?”

Anh nhún vai. “Không thích.”

“Ai sống ở đó bây giờ”

“Không ai cả.”

“Anh không cho thuê nó à?”

Anh lạnh lùng nhìn cô một cái. “Không, sao anh phải làm thế?”

“Không sao cả,” cô nói thấy ngạc nhiên vì có người sở hữu một ngôi nhà mà họ lại không trông coi cũng không dùng đến. Với cô điều đó có vẻ như rất lãng phí, nhưng đó không phải là chuyện của cô. “Chúng ta sẽ sống ở đấy sau khi kết hôn phải không?”

“Không, chúng ta sẽ sống trong ngôi nhà ở London của anh,” anh cộc lốc nói.

Cô gật đầu, một chút thất vọng. Cô khá thích cái ý nghĩ rằng mình sẽ sống giữa vùng quê xanh tươi này, nhưng tất nhiên là, nếu anh ghét Foxcotte, thế thì thôi vậy. Việc này có vẻ rất kỳ lạ. Cô có ấn tượng là anh đã rất vui vẻ khi sống với bà ngoại. Rằng anh đã không quay về đó kể từ khi anh mười bốn tuổi với những cảm xúc mạnh mẽ.

“Chúng ta sẽ sớm tới Penton Mewsey,” anh nói. “Cleeveden giáp ranh ngay cạnh.”

“Hai nhà hẳn rất gần nhau,” cô nói, để che lấp sự rối loạn đã bắt đầu nhộn nhạo bên trong dạ dày với những lời của anh. “Cleeveden và Foxcotte, ý em là thế.”

“Ừm, cách nhau khoảng năm dặm. Thế nên bà của em và anh mới quen thân nhau hồi còn con gái.” Chiếc xe chậm dần, người xà ích quay đầu lại và làm một cử chỉ với Rafe, anh gật đầu. Chiếc xe rẽ vào một cánh cổng và lăn nhanh trên một đường xe chạy rải sỏi mịn.

“Chào mừng đến với Cleeveden,” Rafe nói. “Nhà em đây rồi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.