“Hãy đăng ký lời rao hôn phối với mục sư ở nhà thờ giáo xứ của bà,” Rafe nói với Lady Cleeve một tuần sau khi Ayisha mất tích. Anh mỗi ngày đều đi tìm cô, trong vô vọng.
Lady há hốc. “Rao cho ai?”
“Cho Ayisha và tôi, tất nhiên.”
“Nhưng con bé đã bỏ đi rồi mà. Cậu không biết nó ở đâu-”
“Tôi sẽ tìm được cô ấy,” Rafe kiên quyết nói. “Và khi đó tôi sẽ kết hôn với cô ấy. Tôi đã viết thư gởi xin một giấy phép đặc biệt, tất nhiên, ngoài ra cũng sẽ chẳng tổn hại gì để có lời rao.” Đó là một cơ hội mong manh, anh biết, nhưng nếu Ayisha vẫn còn trong khu vực này, cô có thể sẽ đi dự lễ nhà thờ, và nếu vậy, anh muốn cô nghe được lời rao hôn phối cho chính đám cưới của mình. Điều đó sẽ cho thấy rõ ràng quyết tâm của anh để kết hôn với cô.
“Tên mẹ cô ấy là Kati Machabeli. Tôi đã viết ra đây.” Anh chuyền cho bà một mẫu giấy. “Tôi sẽ đi Axebridge để yêu cầu mục sư của anh trai tôi làm việc tương tự. Cũng như thông báo cho anh ấy biết các ý định của tôi.” Anh cho Lady Cleeve một nụ cười lạnh. “Chúng tôi sẽ làm lễ trong nhà nguyện ở Axebridge. Tôi muốn cả thế giới biết cuộc hôn nhân này có sự chấp thuận của bá tước Axebridge.”
Lady cau mày. “Cậu chắc?”
“Chắc chắn,” Rafe nói. “Anh ấy sẽ không có lựa chọn.” Anh trai anh nợ anh, và Rafe sẽ buộc anh ta chấp thuận, ít nhất là ở ngoài mặt.
***
“Tôi đã đính hôn,” Rafe nói với anh trai và chị dâu ở buổi ăn tối hôm sau. Anh đã tới Axebridge vào lúc xế chiều.”
“Tôi nghe,” George thận trọng nói. “Và cô dâu tương lai là ai?”
“Ayisha Cl- Tôi nghĩ về mặt pháp lý cô ấy là Ayisha Machabeli.”
Mày George nhướng lên. “Ai?” Giọng anh lạnh lùng.
“Ayisha Machabeli. Cô ấy là con đẻ của Sir Henry Cleeve và một phụ nữ Georgian tên Kati Machabeli,” Rafe nói với anh trai vào ngày hôm sau.
Miệng anh trai anh thít lại. “Con đẻ?”
“Vâng,” Rafe lạnh lùng nói. “Mẹ Ayisha là người tình của Sir Henry. Ông ấy đã mua bà như là một nô lệ.” Anh đã xác định là sẽ không che giấu điều gì, không tránh né gì. George sẽ biết chính xác em trai mình sẽ kết hôn với ai.
“Và cậu nghĩ cái người – cái người đàn bà này thích hợp là mẹ của bá tước Axebridge tương lai sao?”
Rafe nhìn anh. “Còn gọi cô ấy là ‘cái người đàn bà này’ bằng giọng điệu đó lần nữa, anh trai, tôi sẽ cho răng anh một cú xuống cổ họng và đừng có mơ nhìn thấy chúng lại.”
Tiếp theo là loại im lặng mà bạn có thể cắt ra được. Hai anh em lườm nhau qua bàn.
“Và phải, cô ấy cực kỳ thích hợp để là mẹ của bá tước Axebridge tương lại,” Rafe tiếp tục sau một lúc. “Cô ấy sẽ không bao giờ tán thành một thỏa thuận ma quỷ như của Lady Lavinia Fettiplace của anh đã đồng ý. Ayisha sẽ chiến đấu bằng cả răng và móng – theo nghĩa đen – để giữ các con an toàn trong vòng tay mình.”
Lucy, chị dâu anh, phát ra một âm thanh nhỏ, và Rafe liếc qua. Khuôn mặt thô, hơi giống mặt ngựa của chị đầy vẻ áy náy.
“Cậu không phải đổ lỗi cho-” chị dâu bắt đầu.
Chồng chị đặt tay mình lên tay vợ. “Thôi nào, Lucy,” anh nói. “Chúng ta không cần phải giải thích gì với cậu ta.”
Cô lắc đầu. “Tất nhiên là chúng ta phải, George à. Dù gì thì đấy cũng là con của cậu ấy mà chúng ta đang mưu toan bắt đi.”
Rafe chớp mắt trước sự thành thực không mong đợi.
“Tất cả là lỗi của em-” cô bắt đầu.
“Đó là ý tưởng của tôi,” George át lời cô. “Vì thế có trách cứ gì thì cứ trách tôi. Tôi là người đặt vấn đề với Lady Lavinia, cậu có thể tin tôi là người chịu hoàn toàn trách nh-”
“Nhưng mình làm thế là vì em, bởi vì em, bởi vì em đã thất bại vô vọng với vai trò là một người vợ!” Lucy, chị dâu Rafe, gay gắt thốt lên. Nước mắt rơi lã chã xuống má chị.
Rafe nhìn chằm chằm, ngỡ ngàng bởi sự bùng phát kia.
Trước sự ngạc nhiên của Rafe, George bật ra khỏi ghế và choàng hai cánh tay quanh vợ. “Em không phải là kẻ thất bại, Lucy,” George gấp gáp nói. “Và tôi cấm em không được nói vậy. Em là một người vợ tuyệt vời và tôi – tôi không thể sống thiếu em,” anh thêm vào trong một giọng thấp xuống. Anh rút ra một chiếc khăn tay và bắt đầu dịu dàng lau khô má cô.
Rafe nhìn mà rất đỗi ngạc nhiên. Anh chưa bao giờ nhìn thấy anh trai mình… tình cảm thế này. Và cho đến thời điểm này, anh còn không biết là ông anh mình thậm chí cũng biết quan tâm đến vợ.
Bản thân Rafe lúc nào cũng thích Lucy, thậm chí còn cảm thấy có chút che chở cho chị. Chị là người không được đẹp, cao lêu khêu và khuôn mặt hơi thô, nhưng luôn tốt bụng, dịu dàng và khá sâu sắc. Lúc Rafe còn là một cậu bé, chị là một lý do tốt cho những chuyến về thăm Axebridge.
George, anh hồi tưởng, đã rất thất vọng khi lần đầu tiên gặp chị – bá tước Axebridge đã chọn một cô dâu cho người thừa kế của ông và dòng máu cùng tài sản của Lucy đều là điểm trội.
“Dòng dõi xuất thân rất tốt,” cha anh đã tuyên bố. “Tuy có thiếu sắc, nhưng thế cũng đủ tốt rồi. Những cô nàng xấu xí thường trung thành, đặc biệt nếu họ lấy một thằng đẹp mã như mày, George.”
Không quan trọng George nghĩ gì. Cha anh không phải là người thích bị cãi lại. Và ông đã chứng minh mình đúng khi cô nàng Lucy nhút nhát, vụng về vừa gặp vị hôn phu đẹp trai đã yêu đến si mê.
Nhưng có vẻ như, ở đâu đó trên chặng đường này, anh trai anh đã quan tâm tới chị. Quan tâm sâu sắc, nếu Rafe công bằng nhận xét.
“Đó là vì tôi, Rafe,” Lucy nói khi đã bình tĩnh lại. “George làm thế là vì tôi. Tôi quá… quá tuyệt vọng cho một đứa con. Và Lady Lavinia… Lady Lavinia đã nói…”
Chồng cô nói thay. “Lady Lavinia đã nói rất rõ ràng rằng cô ta không thích trẻ con và nói sẽ giao con cho người hầu trông. Và trong khi điều đó chẳng có gì sai cả… Thì chi bằng Lucy…” Anh cho vợ một cái nhìn đau khổ.
“Rafe, tôi khao khát được bồng một đứa trẻ trong vòng tay mình,” Lucy nghẹn ngào nói. “Tôi khao khát điều đó đến nỗi đã gần như bắt trộm một đứa trẻ trong làng. Tôi đã bế nó lên trong một lúc – tôi đã đặt nó trở lại, nhưng… điều đó đã làm George lo lắng.” Khuôn mặt chị dúm dó.
Trong một lúc lâu, trong phòng không có một âm thanh nào trừ tiếng tanh tách của lò sưởi và tiếng sụt sùi của chị dâu hiền lành của Rafe. Chồng chị ôm chị một cách bất lực.
Sau một lúc, Lucy cũng đã thôi khóc, và sau khi rót cho mỗi người một ly nước, George tiếp tục câu chuyện. “Tôi đã nghĩ nếu Lady Lavinia không muốn nuôi nấng đứa trẻ… thì Lucy có thể. Cô ấy sẽ là một người mẹ tuyệt vời…” Anh nhìn Rafe. “Tôi xin lỗi, Rafe, tôi đã không nghĩ cho cậu; tôi đã nghĩ tới Lucy, chỉ cho Lucy… Tôi hy vọng ngày nào đó cậu sẽ tha thứ cho tôi.”
Rafe thấy sốc trước lời thú nhận. Anh đã nghĩ sự sắp đặt với Lady Lavina như là một dấu hiệu khác cho thấy Rafe không quan trọng gì đối với gia đình mình, rằng anh trai anh đã không có sự tôn trọng nào với Rafe và chẳng quan tâm gì trừ cái tước vị bá tước Axebridge và người thừa tự.
Nhưng không phải vì tương lai của Axebridge đã khiến George chọn một giải pháp tuyệt vọng đến vậy, mà là vì tình yêu của anh dành cho vợ.
“Tôi đã không biết. Và với việc tôi làm bây giờ, thì chẳng có gì để phải tha thứ,” Rafe lặng lẽ nói.
“Nhưng-”
Anh lắc đầu. “Tôi sẽ không kết hôn với Lady Lavinia. Tôi bây giờ đã có Ayisha, thế nên không có gì để tha thứ cả. Được rồi, chị Lucy, tôi tha thứ cho chị, cả hai người. Tôi đã hiểu.”
Những lời của anh đã lấy thêm nước mắt của Lucy, và Rafe thấy mình phải đi tới chỗ lò sưởi và nhìn chằm chằm vào ngọn lửa; hình ảnh anh trai anh đang an ủi vợ khiến anh… có cảm giác… cảm xúc đang sôi trào lên trong anh.
Anh nhớ Ayisha da diết, anh muốn cô trong vòng tay anh. Ở đây. Bây giờ.
Nhưng anh sợ rằng, cũng như chị dâu của mình, anh có thể sẽ đau đớn, khát khao và trống rỗng, cho quãng đời còn lại của mình.
Khi anh quay lại bàn, George nói, “Vậy, cậu nghiêm túc về chuyện kết hôn với cô nàng cậu tìm thấy ở Ai Cập?”
Rafe nhìn lên, chuẩn bị lên tiếng phản bác cho Ayisha, nhưng anh trai anh trông có vẻ nghiêm túc và chân thành.
“Ayisha, phải, rất nghiêm túc.”
George nhìn xoáy vào anh. “Cậu thích cô ta,” anh ta nói bằng một giọng như khám phá ra điều gì đó.
“Phải,” Rafe thừa nhận. Anh nuốt khan và thêm vào, “Rất nhiều.” Không hiểu sao, trước lời thú tội của họ cũng như việc nhận ra anh trai anh yêu vợ đã xóa đi một ít khoảng cách giữa hai anh em.
George gật đầu. “Thế thì chúng tôi nên vui mừng chào đón cô ấy vào gia đình ta, phải không, Lucy?”
“Vâng, tất nhiên,” Lucy nói. “Cậu sẽ tổ chức lễ cưới ở Axebridge chứ, Rafe?”
Rafe gật đầu. Anh thấy ngỡ ngàng bởi sự đơn giản của vấn đề. Anh đã lường trước một cuộc tranh cãi, buộc tội, gay gắt, và cắng đắng lẫn nhau. Và theo một cách nào đó, thì đó là những gì đã xảy ra. Nhưng anh đã không mong đợi sự chấp thuận. Và tha thứ.
“Hay lắm,” Lucy kêu lên. “Tôi luôn muốn tổ chức một đám cưới. Thế cô Machabeli hiện ở đâu?” Cả George và Lucy đều nhìn anh trong một câu hỏi nhẹ nhàng.
Im lặng kéo dài.
“Tôi không biết,” cuối cùng Rafe nói. “Tôi hình như – hình như tôi đã để mất cô ấy rồi.” Cổ họng anh đột nhiên thít lại để có thể nói, và tất cả những gì anh có thể làm là rút ra lá thư Ayisha gởi cho anh, đẩy nó về phía chị dâu, rồi đi tới và nhìn chằm chằm vào ngọn lửa trong khi họ đọc nó.
“Thế cậu tính làm gì?” George sau đó nói qua ly brandy.
“Tìm cô ấy. Bắt cô ấy quay lại. Cưới cô ấy,” Rafe nói và nhấp một ngụm chất lỏng ngọt dịu. Anh đã chẳng hình dung ra được việc mình ở đây, nói chuyện với anh trai như… một người bạn.
“Tôi chỉ đến đây để báo cho anh biết tôi sẽ kết hôn với cô ấy, cũng như để yêu cầu mục sư đọc lời rao hôn phối, mặc dù tôi đã viết cho Tổng giám mục Canterbury yêu cầu một giấy phép đặc biệt, để phòng xa.”
Luccy siết tay anh. “Cậu sẽ tìm được cô ấy.”
Rafe cũng mong cho chị nói đúng. Cứ nghĩ tới việc sống mà thiếu vắng Ayisha là anh thấy… cuộc sống mình sao mà quá lạnh lẽo hoang vắng. “Tôi cũng đã viết thư cho cảnh sát Bow Street, và họ sẽ thực hiện yêu cầu ở London và Portsmouth. Tôi cũng sẽ mở cửa ngôi nhà ở London và chuẩn bị sẵn sàng cho Ayisha và tôi vào ở.”
“Cậu sẽ không sống ở Foxcotte sao?” Lucy hỏi.
Anh lắc đầu. “Không, Ayisha đã luôn sống ở thành phố. Tôi nghĩ cô ấy sẽ thấy vùng quê này quá vô vị.”
George gật đầu. “Vậy cậu sẽ làm gì với Foxcotte?”
“Làm gì với nó?” Rafe nhíu mày. “Ý anh là gì?”
“Để nhàn rỗi một tài sản trong một thời gian dài như thế thì không được tốt lắm. Tất nhiên đó là quyết định của cậu,” anh trai anh nói, với vẻ cẩn thận để tránh đụng chạm, “nhưng nếu nó là của tôi, tôi sẽ cho thuê hoặc bán nó đi.”
Ayisha cũng đã nhiều lần nói thế, Rafe nhớ lại.
“Tôi sẽ không bán nó.” Rafe ngạc nhiên bởi thấy mình bỗng dưng nổi giận. Anh kiểm soát giọng mình, “Tôi có thể đã không ở đó kể từ năm tôi mười bốn tuổi, nhưng tôi không muốn bán nó.
“Vậy cậu sẽ cho thuê nó chứ?”
“Tôi sẽ xem xét việc đó,” Rafe nói. “Tôi sẽ quay lại chỗ Lady Cleeve – bà ấy là bà nội của Ayisha, sống gần Penton Mewsay, không xa với Foxcotte lắm – và tôi có thể ghé qua Barry, người quản lý của tôi, trên đường đi và xem thử có vấn đề gì không.”
“Cậu nghĩ Ayisha có thể vẫn ở trong khu vực đó à?” Lucy hỏi.
Rafe nhún vai. “Tôi không biết. Nhưng tôi không thể không nghĩ cô ấy sẽ quay lại đó hoặc viết thư nếu gặp phiền phức. Lady Cleeve dù sau cũng là bà của cô ấy.”
“Tôi đăng một mẫu thông cáo lên báo nhé?” George hỏi.
“Thông cáo? Ý anh là thông cáo mất tích?”
George mỉm cười. “Không, ý tôi là đăng thông báo về việc hứa hôn từ tôi, như là người đứng đầu của gia đình. Nếu cô gái kia-”
“Ayisha.”
“Ừ, nếu cô ấy thấy nó, nó có thể giúp cậu trong trường hợp cậu muốn cho thấy rằng gia đình ủng hộ cuộc hôn nhân này. Tôi nghĩ một bảng tin lớn với huy hiệu gia đình sẽ gây được chú ý.”
“Đúng thế, George. Cám ơn,” Rafe xoay sở để nói. Anh biết rõ rằng bảng tin lớn cùng huy hiệu gia đình không phải là để cho Ayisha đọc – ngay cả nếu cô có đọc báo, cô cũng sẽ không biết đấy là huy hiệu gia đình. Mà đó là một lời thông báo cho giới thượng lưu.
Anh trai anh sẽ làm cho thế giới biết rõ rằng cuộc hôn nhân này hoàn toàn được bá tước Axebridge ủng hộ. Và rằng Bá tước Axebridge cũng mong giới thượng lưu chấp thuận và ủng hộ nó.
Đó còn hơn là sự ủng hộ của gia đình mà Rafe đã từng có trong cuộc đời mình.
***
Vào lúc giữa trưa thì Rafe tới Andover. Đã mười ngày kể từ lần cuối anh gặp Ayisha. Tuyệt vọng đang ngày càng gặm nhắm vào anh, nỗi sợ cô có thể thực sự biến mất mãi mãi đã thúc giục anh tìm kiếm không ngừng nghỉ. Anh từ chối để cho mình tuyệt vọng. Anh sẽ tìm ra cô. Anh phải tìm ra cô. Toàn bộ hạnh phúc tương lai của anh phụ thuộc vào điều đó.
Anh cưỡi ngựa rẽ qua khỏi hướng vào Foxcotte thì một ý nghĩ bỗng dưng xẹt qua anh. Có khi nào cô đã đi đến đó? Cô ấy biết nó là của anh, biết nó ở gần đây – cô đã thấy cái biển hiệu lúc mới tới đây.
Có khi nào Ayisha lại tới Foxcotte?
Anh thúc ngựa phi nhanh hơn, phi nhanh qua ngôi làng, và dừng lại ở cánh cổng lớn, cũ kỹ bằng sắt chạm trỗ, với biểu tượng con cáo quá quen thuộc và đầy yêu thương từ thời thơ ấu của anh.
Khi ấy, cửa cổng này có màu đen, sáng bóng và luôn mở ra, chờ anh trở về. Còn giờ thì chúng xám xỉn, đóng chặt, khóa lại với một sợi dây xích dày và một ổ khóa cũ kỹ.
Phía bên ngoài, con đường rải sỏi đầy cỏ và trông nhếch nhác. Không có chiếc xe ngựa nào chạy lên nó trong một thời gian dài.
Rafe buộc con ngựa vào cổng và trèo lên bức tường. Vài viên đá đã sút ra, anh thấy. Nó cần được sửa sang lại.
Khi anh bước lên con đường mòn, ký ức ùa về trong anh. Nơi này rất nhếch nhác, nhưng lạ lùng thay, anh lại có cảm giác hân hoan. Anh đã luôn yêu thích nơi này, đã từng rất hạnh phúc ở đây.
Nhưng bởi vì anh chưa bao giờ thực sự chấp nhận về cái chết của bà ngoại, bằng cách nào đó anh cảm thấy mình… có tội. Bà đã chết trong đơn độc, không có ai bên cạnh nắm lấy tay bà, an ủi bà. Anh lẽ ra phải ở đó. Bà đã đón nhận anh khi mà không ai muốn anh. Vậy mà anh đã bỏ rơi bà.
Lý trí phản biện rằng đó không phải là lỗi của anh, rằng đã không ai nói cho anh biết, nhưng từ trong trái tim mình, anh biết, anh đã không viết thư về thường xuyên như lẽ ra anh phải, và nếu như anh đã làm thế, chắc ai đó – một trong những người hầu, đã báo cho anh biết. Cái cảm giác tội lỗi ấy vẫn còn trong anh, vì thế anh chưa bao giờ trở lại. Anh sẽ không hưởng lợi từ cái chết của bà.
Đó là một sai lầm, anh nhận ra. Nơi này sẽ giúp ích được cho lương tâm anh, chứ không phải làm trầm trọng nó thêm. Anh bước tới phía trước ngôi nhà. Tất nhiên nó đã bị khóa. Anh chăm chú nhìn vào các cửa sổ và tất cả vẫn tĩnh mịch, bụi bặm, và các tấm vải vẫn phủ trên các đồ nội thất.
Không có ai ở đây trong một thời gian dài.
Anh bước quanh hông nhà, nhìn chằm chằm vào mỗi cửa sổ anh bước qua. Cũng thế: tối tăm, bụi bặm, không bị quấy rầy gì trong nhiều năm qua, và các tấm vải phủ. Chuồng ngựa trống không và tĩnh lặng, cũng bị xích và khóa móc lại. Khu vườn bếp có tường cao mọc đầy cỏ dại; chỉ có góc vườn cạnh ngôi nhà tranh của người làm vườn là được dọn sạch gọn gàng. Một làn khói mỏng từ ống khói của ngôi nhà người làm vườn già cả.
Rafe mỉm cười, nhớ lại. Ngôi nhà của lão Nat, xây dựa vào bức tường. Không có gì thay đổi. Là dây phơi đồ thõng xuống mắc giữa ngôi nhà tranh và cây táo già, và trên đó kẹp một cái tạp dề, vài cái khăn rửa bát, và hai chiếc áo ngủ vải flanen hoa màu hồng sáng khổng lồ của bà Nat, phồng lên như những cánh buồm khổng lồ trong gió. Anh mỉm cười với hình ảnh quen thuộc.
Ông lão làm vườn hẳn đã trở thành người thiên cổ. Hoặc có lẽ chỉ có bà Nat là vẫn còn sống ở đó. Bà Nat, người đã luôn làm một lát bát ngọt dày hoặc một ít bánh quy cho một cậu nhóc đang tuổi ăn tuổi lớn.
Anh đã không đi tới đó và gõ cửa nhà bà. Nếu anh làm thế, bà sẽ pha một bình trà và anh sẽ tốn một tiếng đồng hồ ở đó hoặc hơn. Anh cần tiếp tục tìm kiếm.
Anh cần trở lại Cleeveden, xem thử có tin gì mới không.
Đã không có ai ở Foxcotte nhiều năm qua. Ayisha cũng không có ở đây, sau tất cả.
Anh lê bước xuống lối đi, trèo qua hàng rào, và cưỡi ngựa trở lại làng. Anh sẽ cho thuê nhà, anh quyết định. Cuối cùng anh cũng đã xua được những bóng ma của mình đi. Nơi này đang bắt đầu xuống cấp, và anh không muốn điều đó xảy ra.
Người quản lý, ông Bay, đã rất vui khi gặp anh. “Tôi đang chuẩn bị dùng trà, cậu Ramsey, và tôi rất vinh dự nếu cậu dùng cùng tôi,” người đàn ông nói.
Một tiệc trà thịnh soạn gồm bánh mì, bơ, mật ong, mứt, kem, phô mai, dưa chua, và vài loại bánh ngọt đã được sắp ra trên bàn, cùng với một loại bia lạnh địa phương. Rafe không thích thú gì với chuyện ăn uống, nhưng anh cũng chấp nhận lời mời. Tốt nhất là giải quyết cho xong chuyện điền trang càng nhanh càng tốt. Anh muốn mọi thứ đâu vào đó một khi anh đã tìm thấy Ayisha.
Họ nói về điền trang – hay nói đúng hơn là ông Barry nói, còn Rafe nghe và gật đầu trong khi người đàn ông dùng trà của mình. Rafe không ăn gì. Mấy ngày này anh không có cảm giác muốn ăn. Anh nhấm nháp một chút bia chua địa phương.
“Tôi có nhận được vài lời đề nghị thuê Foxcotte, thưa cậu. Cậu thử cái này xem.” Barry chuyền qua anh một cái đĩa và Rafe lơ đãng lấy một miếng bánh nướng.
Barry tiếp tục, “Tôi đã viết thư cho cậu, nếu cậu còn nhớ. Ăn chút gì đi, cậu chủ. Câu trông có vẻ xanh xao nếu cậu không phiền tôi sẽ nói thế. Sao cậu không cắn cái bánh nhỏ đó xem?”
Rafe, kín đáo thở dài trước sự quan tâm tử tế của người đàn ông, buộc mình cắn một cái, chỉ để ông thôi nói nữa. “Tôi có nhận được thư của ông,” anh nói, “nhưng bây giờ tôi đang nghĩ-” Anh đột ngột ngừng lại và nhìn vào thứ anh đang ăn. Một miếng bánh cá bơn, hình tam giác mà hình dạng và mùi vị rất quen thuộc. Và không phải là từ thời thơ ấu của anh. Tim anh bắt đầu đập mạnh.
“Ở đâu có cái bánh này vậy?” anh hỏi Barry trong một giọng bình tĩnh đến lạ lùng.
“Tiệm bánh trong làng, cậu chủ. Chúng có hơi lạ một chút, nhưng mà rất ngon – cậu chủ? Cậu chủ?”
Nhưng Rafe đã nhét phần còn lại của miếng bánh vào trong túi áo và đi ra. Trong ba bước anh đã ở bên ngoài đóng sầm cửa ngôi nhà lại, ném mình lên con ngựa, và phi nước đại về phía ngôi làng.
Ôi Chúa ơi, anh cầu nguyện. Hãy cho đó là cô ấy. Anh không dám hy vọng, nhưng cái bánh… nó giống y như-
Chúa ơi, làm ơn.
Có phải cô ấy ở đó, trong cái tiệm bánh ấy? Đó phải là cô ấy, phải là thế.
Anh xông vào tiệm bánh và nhìn quanh quất. Không có dấu hiệu gì của Ayisha. Cơn tuyệt vọng sâu hoắm siết chặt vào anh.
Anh lấy phần còn lại của miếng bánh ra và chìa nó ra một cách quyết liệt. “Ai làm cái bánh này?”
“Có gì không ổn với nó sao?” Người bán bánh tiến về phía trước, một gã to con mập mạp, cái cằm nhô ra với vẻ muốn đánh nhau.
“Không. Nhưng ai làm nó?” Chúa tôi, anh đang run run.
“Một cô gái trẻ đem nó tới.”
Ôi Chúa ơi, Chúa ơi. “Cô ấy sống ở đâu?” Rafe nói, ngạc nhiên khi nghe thấy giọng mình bình tĩnh đến thế.
Người đàn ông cho anh một cái nhìn nghi ngờ, lâu lắc. “Tôi không có nghĩa vụ nói cho bọn nhà giàu biết nơi một cô gái trẻ có thể sống – cô ấy là một cô gái tốt, một-”
Rafe muốn đấm cái tên đàn ông này, đấm vào trong khuôn mặt núc ních, tự mãn của gã, nhưng cũng đồng thời tới bắt tay gã vì đã bảo vệ Ayisha, vì đó hẳn là – đó phải là cô ấy. Thay vì vậy anh cố trấn định mình với một cái nhìn lạnh lùng và nói, “Tôi muốn nói-”
“Ồ, Thomas, ông không biết đây là ai sao?” Một người đàn bà trung niên, phốp pháp lăng xăng tiến lên phía trước. “Đó là cậu chủ Rafe ở ngôi nhà cổ, đúng không, thưa cậu?”
“Vâng.” Rafe nhìn chằm chằm vào chị ta và qua lớp sương mù tuyệt vọng, ký ức của anh bị khuấy động. “Jenny – không, Janey Bray, phải không?”
Người đàn bà cười rạng rỡ. “Chính xác, nhưng tôi giờ đã là bà Thomas Rowe rồi. Rất vui vì cậu còn nhớ tôi. Tôi đã không gặp cậu kể từ khi cậu còn là một thằng nhóc, nhưng tôi nhớ cậu, cậu chủ. Luôn thích những chiếc bánh sữa đông của tôi, cậu đấy.”
“Tôi nhớ. Nào, người phụ nữ trẻ đã làm những chiếc bánh này,” Rafe nhắc nhở chị ta.
“Cháu gái của lão Nat hửm? Con bé tự mình làm những chiếc bánh nướng này và mang chúng đến đây mỗi ngày. Có chút là lạ, đúng không, cậu chủ? Rất ngon.”
“Cháu gái lão Nat?” anh vô thức lặp lại. “Chị chắc chứ? Hoàn toàn chắc chứ?” Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Nếu chị ta biết tất cả mọi người, vậy thì cô ta không thể là Ayisha được. Vị đăng đắng của những hy vọng bị xẹp hơi trào vào anh.
“Chính thế. Xem nào, con bé bất ngờ tới đây, gần hai tuần trước, đã dọn dẹp sạch sẽ chỗ của Nat – ừm, nó cần được thế – đã rất lâu rồi kể từ khi bà Nat qua đời, và lão Nat đã đi trước bà trước đó. Tôi không nhớ có ai nói với chúng tôi cô bé là cháu của Nat không – ông có nhớ không, Thomas? Không à, tôi cũng vậy, nhưng chắc là vậy rồi, chắc thế.”
Hy vọng thận trọng khuấy động trở lại. Rafe cẩn thận hỏi. “Cô ấy ở ngôi nhà của ông lão làm vườn?”
“Đúng thế, cậu chủ, cậu có nhớ-” Nhưng Rafe đã đi mất.
Ngôi nhà tranh của người làm vườn được xây thụt vào trong của bức tường cao của khu vườn, và một trong những điều khiến nó thú vị mà Rafe nhớ lại từ thời thơ ấu của mình, đó là bạn có thể đi vào ngôi nhà tranh từ khu vườn nhà bếp và đi thẳng qua nó để ra bên ngoài điền trang.
Rafe cưỡi ngựa vòng ra lối đi ở sân sau, tim anh đang chạy đua. Nghĩ tới chuyện lúc nãy anh đã tránh đi tới đó bởi vì anh ngại vợ của lão Nat sẽ giữ anh lại nói chuyện.
Với hai tay run run, anh buộc con ngựa vào một cái cây, lau hai lòng bàn tay âm ẩm của mình, và gõ vào cánh cửa ngôi nhà tranh của ông lão làm vườn.
Cánh cửa mở ra và cô đứng đó trong bộ váy cũ, kiểu thôn quê đã nhạt màu của bà Nat và một chiếc tạp dề. Có một vết nhọ nồi trên má cô, tóc cô buộc lên một cách cẩn thận với một mẫu vải màu xanh lá, mũi cô đỏ ửng, đôi môi cô bị nứt nẻ do thời tiết lạnh lẽo, và cô vẫn là người phụ nữ xinh đẹp nhất mà anh từng gặp trong cuộc đời mình.
Cái nhìn đói khát của anh như muốn nuốt lấy cô. Cô chăm chăm nhìn anh, ngỡ ngàng, bất động, im lặng, đôi mắt cô ánh lên vẻ cảnh giác như khi anh lần đầu gặp cô.
Anh không quan tâm. Anh muốn thuần phục cô và anh sẽ làm thế lần nữa. Hoặc sẽ chết vì gắng sức.
Con mèo xuất hiện và cọ cọ vào mắt cá chân anh, kêu meo meo ai oán để được bế lên.
Nhưng Rafe chỉ để mắt tới Ayisha.
“Em lại gầy nữa rồi,” anh nghèn nghẹn. Một câu nói hay ho làm sao. Tất cả những gì anh đã tập luyện trong đầu, tất cả những từ ngữ anh dành để đem cô trở về với anh, và khi đã đến lúc dụng đến, thì đó là tất cả những gì anh có thể nói. Nhưng đó là sự thật. Cô mỏng mảnh đến đáng thương. Cô hẳn đã bị đói khát suốt chừng ấy thời gian. Anh đau nhói lòng vì cô.
Anh nhìn chằm chằm vào cô, buộc mấy từ kia thoát ra, nhưng anh chỉ có thể nhìn. Và nhìn. Ngấu nghiến nhai cô bằng đôi mắt mình.
“Anh cũng gầy hơn,” cô nhẹ nhàng nói.
“Có lẽ, nhưng nếu tôi có gầy hơn, thì đó không phải bởi vì tôi đang chết đói,” anh nói, giọng anh khàn khàn với cảm xúc. “Mà bởi vì tôi đã lạc mất em.”
Cô nở một nụ cười run run và ra hiệu ở phía sau anh. “Em có thức ăn, nhưng em không đói vì thiếu ăn. Mà là vì anh.”
Với lời nói đó của cô, sự tự chủ của anh vỡ vụn, và anh bước lên, nắm chặt quanh eo cô, và nhấc bổng cô lên, ôm chặt cô vào lòng, sẽ không bao giờ để cô chạy khỏi anh lần nữa. Anh ghì chặt cô, để cảm nhận nhiều hơn cảm giác có cô trong vòng tay anh lần nữa, hít hà mùi hương dấu yêu của cô, vùi mặt anh vào trong khuôn ngực mềm mại của cô.
Hai cánh tay cô vòng quanh anh và cô ôm anh, hôn lên đỉnh đầu anh, lên tai anh, lên bất cứ đâu cô có thể, gấp gáp vuốt ve anh với yêu thương. “Ôi, Rafe, ôi, Rafe,” cô thì thầm.
Anh từ từ trượt cô xuống cơ thể anh cho đến khi mặt họ ngang nhau, và hôn cô thật sâu. “Đừng bao giờ bỏ rơi anh lần nữa,” anh ra lệnh. Toàn bộ cơ thể anh đang run lên.
Cô khum khuôn mặt anh trong đôi tay mình và nghiêm túc nhìn anh. “Anh chắc chứ, Rafe? Em không muốn phá hỏng đời anh.”
“Cách duy nhất em có thể phá hỏng đời anh là rời bỏ anh,” anh mạnh mẽ nói. “Anh cần em. Cần em trong vòng tay anh, trong cuộc đời anh.”
Cô nhìn chằm chằm vào mắt anh trong một lúc, sau đó run run thở ra. Cô siết chặt cánh tay mình lên anh và thì thầm, “Vậy thì hãy chiếm lấy em ngay bây giờ đi, tình yêu của em, vì em cần anh, cần anh hơn những gì em có thể nói.”
Anh đá cánh cửa đóng lại đằng sau mình và mang cô đến nơi cô đã kéo một tấm nệm đến trước lò sưởi. Anh đặt cô lên tấm nệm, ngồi xuống, và kéo đôi ủng của mình ra.
Cô nằm lặng lẽ, nhìn lên anh. “Em nhớ anh nhiều lắm, Rafe.” Cô rà bàn tay mình nhẹ nhàng lên sống lưng anh.
Anh thấy mình như thể đã trần truồng, là cách anh cảm nhận được trước cái chạm vào nhẹ nhất của cô, thậm chí qua vài lớp quần áo.
Anh đứng lên để cởi chiếc áo choàng. “Đừng bao giờ bỏ chạy khỏi anh một lần nữa,” anh nói, kéo chiếc áo sơ mi ra.
“Chuyện đấy tệ nhất là vào ban đêm.”
“Ừ, phải, ở Anh quốc trời rất lạnh vào ban đêm.” Anh bắt đầu cởi nút chiếc quần ống chẽn của mình.
“Nhiệt độ không phải là vấn đề. Em tìm thấy những chiếc váy ngủ dày, ấm, rất tuyệt.”
Anh cười ngất khi nhận ra cô đang mặc chiếc áo ngủ vải flanen rộng thùng thình của bà Nat. “Em đang mặc-”
Cô đặt bàn tay quanh đùi anh, và anh quên mất mình đang nói gì.
“Anh thật sự nhớ em sao, Rafe?” cô hỏi.
Anh quay lại, chiếc quần ống chẽn mở dở dang, và cho cô một cái nhìn hoài nghi. “Nhớ em? Nhớ em?” Ánh mắt nóng rực của cô hoàn toàn làm anh mất hết nhuệ khí, và anh rên rỉ và quỳ phịch xuống trước mặt cô. “Anh thà mất một cánh tay hoặc một cái chân, hoặc cả hai mắt của mình hơn là mất em lần nữa. Anh chưa bao giờ cảm thấy như thế…” Anh lắc đầu. “Tim anh quá xúc động để mà thốt nên lời.”
“Vậy thì hãy cho em thấy,” cô nhẹ nhàng nói, kéo anh xuống cô.
Anh đã cho cô thấy, yêu thương mỗi inch cơ thể cô với một sự tỉ mỉ dịu dàng làm cô mềm nhũn và thở hổn hển, bất lực với tình yêu và những giọt nước mắt chực chờ rơi ra – tại sao lại là nước mắt, cô không thể tưởng tượng được.
Cô là của anh, hãy làm những gì anh muốn, cho bây giờ, ít nhất. Không còn vấn đề gì giữa họ, chỉ còn duy nhất việc cô đã nhớ anh đến tuyệt vọng và anh, rõ ràng, có cùng cảm giác tương tự. Vì thế, cho bây giờ, cũng là đủ.
Những ngọn lửa nhảy nhót, mạ vàng da anh, vuốt ve lên mỗi cơ bắp lộng lẫy, lên mọi góc độ nam tính và lên ngực anh, người đàn ông vàng nhũ của cô. Bên ngoài gió rít qua những hàng cây.
Ngôi nhà tranh này hợp với cô một cách hoàn hảo, kẹp giữa hai thế giới. Một bên là ngôi nhà rộng lớn mà anh sở hữu, và bên kia, là sự hoang dã, khu rừng hoang dã. Cái nào mới là nơi cô thuộc về?
Không, cô thuộc về vòng tay anh, cô nghĩ, khi tay anh, môi anh chậm rãi lái đi bất kỳ suy nghĩ mạch lạch nào trong tâm trí cô. Không quan trọng họ ở đâu trong thế giới này, miễn là cô ở trong… cánh… tay… anh…
Và sau dó cô nghe thấy chúng, những từ ngữ mà anh chưa bao giờ nói ra, quá trầm bổng và mềm mại đến nỗi lúc đầu cô không chắc có phải mình đã mơ thấy nó không. “Anh yêu em, Ayisha.”
Đôi mắt cô vụt mở. Ánh mắt anh khóa chặt với ánh mắt cô. Một cách điên cuồng, cô cố góp nhặt lại trí thông minh của mình.
Anh nói lại một lần nữa. “Anh yêu em, Ayisha.” Cơ thể anh vẫn đang chuyển động trong cô, làm phân tán đi mỗi ý nghĩ trừ một thứ.
“Anh yêu em, Ayisha.”
Cô muốn đáp trả, nhưng cô không nghĩ ra được một từ nào, không thể nào. Cô vỡ ra quanh anh, những lời anh nói đang ngân vang trong hai tai cô, như điệu nhạc dồn dập qua chúng: “Anh yêu em, anh yêu em, anh yêu em.”
Sau đó, cô nằm trong vòng tay anh, nhìn lửa bập bùng nhảy nhót. Sau một lúc, cô thở dài và ngồi lên. “Em lẽ ra không nên cho phép điều đó. Em sẽ không trở thành tình nhân của anh, em-” cô bắt đầu.
“Suỵt,” anh nói, hôn cô. “Anh yêu em. Anh muốn em là vợ anh và luôn luôn muốn có em.”
Đôi mắt cô ngập nước khi cô hiểu anh nghiêm túc với mỗi từ anh nói. “Ồ, Rafe, em cũng yêu anh, rất, rất nhiều. Em cũng luôn muốn có anh,” cô thú nhận. “Em thậm chí đã nghĩ thế lúc còn ở Cairo, dù em cố gắng thôi không nghĩ tới nó nữa. Nhưng nếu anh sẽ là một bá t… Bà nội – Lady Cleeve đã nói rằng em sẽ là người hủy hoại quan hệ xã hội của anh.”
“Em đừng lo lắng nữa. Anh không quan tâm người khác nghĩ gì. Em có ý nghĩa với anh hơn là bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Anh yêu em và anh cần em, và anh sẽ kết hôn với em.”
“Em sẽ không bỏ con mình đâu đấy,” cô cảnh báo.
“Cả anh cũng không, dù đó không phải là vấn đề.” Anh kể cho cô nghe những gì anh biết, về việc người chị dâu dịu dàng, đáng thương của anh đã gần như đánh cắp một đứa trẻ thế nào. Và điều đó đã làm anh trai anh đường cùng mà làm cuộc giao kèo khiến Rafe tức giận thế nào.
“Chị ấy thật tội nghiệp,” cô thì thầm. “Chúng ta phải làm gì đó về chuyện này, Rafe. Chúng ta phải tìm cho chị ấy một đứa trẻ để yêu thương.”
Anh nhìn cô với một biểu hiện không thể đọc được. “Ayisha Cleeve Machabeli, nếu anh đã không chết đứ đừ vì yêu em, anh chắc sẽ lại yêu em như thế lần nữa, ngay bây giờ,” anh nói trong một giọng khàn khàn.
Ồ, những lời anh nói làm cô thấy ấm áp làm sao. Cô không thể không bày tỏ nó, và điều kế tiếp cô biết là họ lại đang làm tình lần nữa.
“Tại sao em đến Foxcotte?” anh hỏi một lúc lâu sau đó.
“Vì đây là nơi duy nhất em biết,” cô nói. “Em đã gần như không tìm ra nó. Lúc đấy đã muộn và trời đang bắt đầu mưa, em bị lạc đường và đi theo quán tính trong đêm đen, dọc theo bức tường kia, nghĩ nó hẳn dẫn tới đâu đó. Và sau đó em cảm thấy có một cái cửa sổ. Và rồi một cánh cửa. Vì thế em gõ cửa, nhưng không ai trả lời. Em đã cố mở nó và nó đã mở ra, vì thế…” Cô tìm thấy củi và một hộp đánh lửa và ngay sau đó cô đốt lửa lên. Đó quả là một nơi trú ẩn may mắn cho cô và Cleo.
“Chỉ khi em vào làng thì mới biết đây là Foxcotte, sau tất cả. Anh đã nói anh không ở đây kể từ khi anh còn là một cậu bé, vì thế em nghĩ đây là nơi cuối cùng anh nghĩ tới để tìm em. Anh đã không đến đây tìm em, đúng không?”
“Phải, không phải ở Foxcotte. Anh đã ghé chỗ người quản lý điền trang và tính cho thuê chỗ này. Ông ấy đang ăn bánh em làm…”
Anh hôn cô lần nữa, rồi nói, “Đến lúc chúng ta mặc đồ vào rồi. Anh muốn trở lại Cleeveden trong khi trời vẫn còn sáng.”
“Phải làm thế sao?” Ayisha không muốn quay trở lại với một người bà đã khinh thường cô.
“Đừng lo. Anh nghĩ em sẽ khám phá ra có rất nhiều điều đã thay đổi kể từ khi em bỏ đi đấy.”
“Cái gì đã thay đổi vậy? Kể em nghe đi.”
Nhưng Rafe sẽ không nói. Anh hôn lên chóp mũi cô. “Hãy tin anh. Mặc đồ vào, và đi khám phá nào.”
Không gì cô có thể nói hay làm sẽ làm anh đổi ý, vì thế cô mặc quần áo vào và thu dọn đồ đạc của mình, sẵn sàng làm chuyến hành trình trở lại Cleeveden.
“Em thấy mình hạnh phúc ở đây,” cô nói, nhìn quanh ngôi nhà nhỏ.
“Hạnh phúc?”
“Cô đơn, nhưng được như ý thích,” cô chỉnh lại. “Nó là một ngôi nhà nhỏ thật dễ thương. Và vùng quê này thật xinh đẹp. Với cả anh biết không? Em còn làm vườn nữa đó.”
Anh cho cô một cái nhìn ngạc nhiên. “Anh tưởng là em sẽ không thích cuộc sống thôn quê.”
Cô lắc đầu. “Không phải. Em chưa bao giờ sống ở nông thôn trước kia, nhưng nó rất tuỵêt. Em rất thích sống ở đây.” Cô đặt bàn tay lên cánh tay anh. “Nhưng nếu nó làm anh thấy khổ sở, thì chúng ta không cần phải ở đây.”
Anh mỉm cười. “Không, anh đã xua được những bóng ma của mình rồi. Anh không thể chịu đựng được khi nhìn thấy nơi này mà không có bà ngoại ở đây, vì biết rằng bà đã chết trong cô đơn. Nhưng anh yêu nơi này khi còn là một cậu bé và anh cũng yêu nó bây giờ, càng yêu hơn khi nó đã mang em trở lại với anh. Bà sẽ rất hạnh phúc nếu chúng ta ở đây. Vậy là vấn đề đã được giải quyết rồi nhé; khi nào chúng ta kết hôn xong, chúng ta sẽ sống ở Foxcotte. Và,” anh thêm vào, “chúng ta sẽ giữ ngôi nhà tranh này làm nơi riêng tư của chúng ta.”
***
“Ayisha yêu quý của ta,” Lady Cleeve bước xuống cầu thang để chào đón họ. “Ta phải xin lỗi-” bà đột ngột dừng lại. “Chúa ơi, như thể ta đang nhìn vào một tấm gương cách đây năm mươi năm vậy.”
Ayisha trao đổi một ánh nhìn với Rafe. “Bà ổn chứ, thưa bà? Bà trông hơi nhợt nhạt,” cô nói.
Lady Cleeve thẳng người. “Ta ổn, cháu yêu, cám ơn cháu. Nhìn thấy cháu, nhìn thấy khuôn mặt cháu làm ta có cảm giác thật tuyệt, mặc dù nó nhấn mạnh rằng ta đã ngốc nghếch thế nào. Đi với ta nào.” Bà dẫn họ đến phòng khách và chỉ vào một bức tranh treo trên tường.
“Đấy,” bà nói. “Ta đấy, ngay trước khi ta kết hôn với ông cháu. Nếu ta có bao giờ nghi ngờ cháu, nghi ngờ lý do mang cháu đến đây, thì bức tranh này là bằng chứng cho thấy rằng cháu rất có ý nghĩa với ta. Cháu là máu thịt của ta, và không gì khác quan trọng bằng.” Bà giơ ra hai cánh tay với Ayisha, và Ayisha ôm bà.
Sau đó họ nói chuyện cùng với trà và bánh ngọt.
“Ta đã đọc bức thư của cháu viết cho Rafe, cháu yêu –cậu ta không có ý định để ta đọc nó,” Lady Cleeve thêm vào với vẻ áy náy, “nhưng ta đã đọc, và nó cho ta thấy ta đã tệ thế nào vì đã đối xử bất công với cháu. Nhưng ta không thể hoàn toàn đổ lỗi cho Whittacker; mà là chính thành kiến của ta mới làm ta tàn nhẫn như vậy. Ta muốn giải thích lý do ta nói đến – nói về St. John’s Wood.”
Ayisha im lặng. Nỗi đau đó vẫn còn đang âm ỉ.
“Ta không thực sự có ý nói vậy. Ta… ta có thành kiến với những cô nhân tình nhân ngãi, đó là tất cả.” Bà vò nhàu chiếc khăn tay trong những ngón tay già nua xương xẩu và bắt đầu, “Cháu biết không, chồng ta đã có một người tình trong suốt thời gian chúng ta ở ́n Độ – một người phụ nữ địa phương, không đáng làm ta chú ý tới – nhưng trước sự xấu hổ của ta, ta đã vô cùng ghen tị. Không chỉ vì cô ta có chồng của ta, cháu hiểu không, mà vì cô ta có thể nuôi giữ các con của cô ta. Có bốn đứa.”
Bà tiếp tục trong một giọng trầm hơn, “Ta đã mất năm đứa con sơ sinh của mình vì khí hậu ́n Độ. Henry là đứa con duy nhất của ta sống sót qua tuổi còn ẳm ngửa, nhưng khi nó vừa qua bảy tuổi, chồng ta đã gởi nó về Anh quốc để đi học.” Khuôn mặt bà giật giật. “Nó còn quá nhỏ. Ta đã cầu xin chồng ta hãy cho nó ở lại với ta thêm vài năm nữa, hoặc là để ta về Anh với nó, nhưng ông ấy đã nói rằng thật tệ hại cho một thằng bé được mẹ quá cưng chiều, và chỗ của ta là ở bên cạnh chồng mình. Và ông ấy đã đưa con ta đi.”
Khuôn mặt của bà lão nhăn nhó khi bà cố giữ cho cảm xúc của mình được kiểm soát. Ayisha trượt ra khỏi ghế và quỳ bên cạnh bà nội mình.
Những ngón tay xương xẩu bấu chặt quanh chiếc khăn tay. “Mỗi ngày ta phải nhìn thấy người phụ nữ đó xuống phố đi qua nhà chúng ta với những đứa con khỏe mạnh, sinh động, vui vẻ vây quanh bà ta – những đứa trẻ mà chồng của ta đã cho cô ta. Trong khi ta đơn độc một mình. Và cay đắng… Khi ta gặp lại Henry của ta, thì nó đã trưởng thành và lịch sự, như một người xa lạ.” Giọng bà vỡ vụn ở từ cuối cùng.
Bà lau nước mắt, hít sâu vài cái, hơi thở run rẩy, sau đó nhìn xuống Ayisha. “Ta đã vì nỗi đau đó mà trút giận lên cháu, cháu yêu của ta, và ta không biết phải bày tỏ sự hối tiếc của mình thế nào để-”
“Suỵt, điều đó không quan trọng bà ạ,” Ayisha nói, vuốt ve bàn tay già cả xương xẩu. “Papa đã không đúng với vợ của ông ấy, không phủ nhận điều đó, cũng như cha của ông cũng đã sai với bà.”
Cô ngập ngừng, sau đó thêm vào, “Chị Laila bạn cháu đã nói rằng chúng ta nên để quá khứ ở trong quá khứ, bởi vì nếu chúng ta đưa nó đi theo chúng ta, nó sẽ chỉ gây độc hại cho tương lai.”
“Bạn cháu là một người đàn bà khôn ngoan.”
Ngay khi đó một tiếng gõ cửa vang lên và người quản gia bước vào. “Ông Pilkington, luật sư, thưa phu nhân.”
Lady Cleeve tươi tắn lên. “Mời ông ấy vào, Adams.”
Rafe và Ayisha đứng dậy. “Chúng tôi nên để bà một mình,” Rafe nói.
Lady Cleeve phẩy tay bảo họ ở lại với một cử chỉ độc đoán. “Không, ở lại đi. Ta đã cho mời Pilkington hồi tuần rồi để ông ấy viết lại di chúc của ta.” Bà ném cho Rafe một cái nhìn có chút thách thức. “Hủy bỏ tên Alicia Cleeve và thay vào đó là Ayisha Machabeli, con gái duy nhất của Kati Machabeli và Sir Henry Cleeve, nam tước, cháu nội của ta.”
Viên luật sư bước vào. Lady Cleeve thực hiện việc giới thiệu nhưng khi bà nói đến Ayisha, đã giới thiệu cô là “Cháu nội ta, Ayisha Machabeli,” viên luật sư sửa lại lời bà. “Ayisha Cleeve, tôi tin thế,” ông nói, với một nụ cười.
Ông giải thích, “Hồi tuần trước, khi phu nhân cho tôi những hướng dẫn về di chúc mới, tôi đã bị ấn tượng với cái tên Kati Machabeli. Có điều gì đó quen quen, ấy là nói thế thôi. Chứ tôi đã lục lại giấy tờ của con trai quá cố của bà và không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã tìm thấy cái này và cái này.” Ông đặt một tờ giấy mỏng lên bàn.
Lady nhặt nó lên và liếc vào nó, nhìn chằm chằm vào viên luật sư, và kiểm tra lại tờ giấy kỹ càng hơn. “Cái này là bản chính?” bà hỏi.
“Tôi tin thế,” viên luật sư nói.
“Ông không phiền để chúng tôi nhìn xem tờ giấy này viết gì chứ?” Rafe lạnh lùng hỏi.
Viên luật sư giật mình, “Ồ, tất nhiên, tất nhiên rồi, thưa ngài.” Ông ta chuyền nó qua Rafe. “Đó là giấy chứng nhận kết hôn của Sir Henry Cleeve với Kati Machabeli – nó được lập một tháng trước khi Sir Henry được ghi nhận là đã qua đời.”
“Họ đã kết hôn ư?” Ayisha kêu lên. “Vào lúc nào vậy?”
Luật sư nói ngày cho cô. “Tôi phải nói lời xin lỗi vì đã không đưa nó cho bất kỳ ai quan tâm đến nó sớm hơn, vì tôi đã không biết. Người ông quá cố của tôi đã xử lý tất cả những việc này và-” Viên luật sư ngập ngừng. “Không thể phủ nhận là, Ông nội đã trở nên khá lẩm cẩm ở tuổi già của mìh. Các chứng từ này đã ở trong một đống lộn xộn, và mặc dù tôi đã cố gắng sắp xếp chúng vào một trật tự gần đúng sau khi ông ấy mất, nhưng tôi đã không đọc kỹ lắm, vì tất cả các bên liên quan đều đã qua đời nhiều năm.”
Ayisha nhìn Rafe. “Chuyến đi cuối cùng của họ là đến Jerusalem. Tôi lẽ ra đã đi cùng họ, nhưng rốt cuộc tôi lại bị sởi vào ngày trước khi khởi hành thế nên không thể đi được. Tôi biết Mama đã rất phấn khích về chuyến đi đó, nhưng… tôi không biết việc này đã được lên kế hoạch… Và khi họ trở lại họ đã chết…” Cô nhíu mày. “Anh biết không, em nghĩ Mama đã cố nói cho em biết, chỉ là em đã không hiểu…” Cô tựa người vào ghế, sững sờ. “Đã kết hôn. Thật tuyệt vời.”
“A hèm,” luật sư hắng giọng không thoải mái. “Tôi e là cuộc hôn nhân này không, ừm, như nó mong muốn, thay đổi địa vị, ừm, xuất thân của cô. Cô vẫn là, ừm, vẫn là…” ông kéo dài.
“Con hoang,” Ayisha nói. “Vâng, tôi hiểu điều đó. Nó không quan trọng. Cuộc hôn nhân đó đã minh chứng những gì tôi đã nói suốt thời gian qua, rằng Papa đã thực sự yêu mẹ tôi.” Cô nhìn Rafe, mắt đẫm lệ. “Và ông ấy đã cố bảo vệ bà ấy. Cuộc hôn nhân này sẽ làm bà tự do, anh thấy không, làm bà ấy là của chính mình.”
“Anh hiểu.” Anh mỉm cười. “Anh nghĩ điều đó cũng có nghĩa là em được quyền được biết đến như là – trong ít nhất là vài tuần tới – như tiểu thư Ayisha Cleeve.”
“Phải, thực vậy,” Lady Cleeve nói.
“Cũng có nghĩa là cô thừa kế tất cả tài sản của Sir Henry,” luật sư nói.
“Thật không?” Ayisha kêu lên. “Gồm cả ngôi nhà ở Cairo phải không ạ?”
Viên luật sư chớp mắt, nhưng cũng lục tìm các giấy tờ của mình. “Vâng, có một ngôi nhà, hiện được cho một người thuê-”
“Tuyệt quá,” cô nói. “Chúng ta có thể cho nó cho Ali không anh?” cô nói với Rafe.
Anh bật cười. “Hãy cho nó cho bất cứ ai em muốn. Nó là của em để làm những gì em thích.”
“Vậy thì em sẽ cho nó cho Ali.” Cô cười rạng rỡ với viên luật sư. “Cám ơn ông, ông Pilkington. Ông làm tôi rất hạnh phúc.”
Rafe liếc qua Ayisha tới bà nội cô. Bà đang nhìn cô cháu nội với một vẻ mặt dịu dàng. Rafe nghiêng người ra phía trước và vỗ nhẹ lên cánh tay bà.
“Cháu đã cảnh báo bà phải thận trọng,” anh thì thầm với một nụ cười.
Bà đáp trả lại anh bằng một nụ cười nhòe lệ. “Quá muộn rồi, cậu Ramsey, quá muộn rồi. Cháu nội ta là một phụ nữ trẻ thật đặc biệt. Cám ơn cậu vì đã đưa nó về với ta.”
“Chỉ là cho mượn thôi,” Rafe hùng hổ nói. “Lời rao đã được gọi rồi bà ạ. Trong bốn tuần nữa cô ấy sẽ là của cháu.”
Ayisha nghe thấy anh nói và bật cười. “Không phải,” cô nói. “Em đã là của anh rồi. Và trong bốn tuần nữa sẽ là một đám cưới.”